image banner
LỊCH SỬ XÃ BÌNH THÀNH

 

LỜI NÓI ĐẦU

 

Xã Bình Thành là một trong những vùng đất giàu truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng của huyện Đức Huệ, tỉnh Long An. Nằm ở vùng bưng trấp, dựa lưng vào nước bạn Campuchia, Bình Thành có vị trí chiến lược quan trọng. Bình Thành là cái nôi của nghĩa quân trong Khởi nghĩa Nam Kỳ và là nơi bảo tồn lực lượng cách mạng sau khi khởi nghĩa thất bại. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Bình Thành luôn là căn cứ địa quan trọng, là con đường hành lang chiến lược của cách mạng từ miền Đông sang miền Tây và từ biên giới xuống các huyện phía nam. Cùng vì thế mà kẻ thù đã tập trung những lực lượng tinh nhuệ nhất, những vũ khí, phương tiện tối tân nhất đánh phá Bình Thành hòng tiêu diệt các cơ quan đầu não của cách mạng, cắt đứt con đường hành lang chiến lược. Để hoàn thành sứ mạng mà lịch sử  đặt trên vai mình, Đảng bộ và nhân dân Bình Thành đã dũng cảm, kiên cường vượt qua vô vàn khó khăn, gian khổ, mất mát, hy sinh. Với những đóng góp to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, Bình Thành đã vinh dự được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.  Phát huy truyền thống anh hùng trong đấu tranh giữ nước, sau khi hòa bình lập lại, Đảng bộ và nhân dân Bình Thành đã tích cực hàn gắn vết thương chiến tranh, chăm lo phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng, xây dựng xã nhà ngày thêm giàu đẹp.

Với lòng tự hào và trân trọng các giá trị truyền thống của quê hương, thực hiện chỉ đạo của huyện ủy Đức Huệ,  Đảng ủy xã Bình Thành đã phối hợp cùng Ban Tuyên giáo Huyện ủy và Bảo tàng Long An biên soạn quyển “Lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng - xây dựng của Đảng bộ và nhân dân Bình Thành”. Nội dung quyển sách khái quát lịch sử của Bình Thành từ thuở mới hình thành cho đến thời điểm 2005, mà trọng tâm là thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng quê hương dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chúng tôi hy vọng rằng, qua tập sách này, truyền thống quý báu của Đảng bộ và nhân dân Bình Thành sẽ được tái hiện, góp phần quan trọng vào công tác giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là đối với các thế hệ tương lai trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Tập sách lần đầu tiên ra bạn đọc là kết quả của sự giúp đỡ nhiệt tình của các đồng chí cách mạng lão thành, các nhân chứng lịch sử, của cấp ủy, chính quyền, các ngành đoàn thể và nhân dân xã Bình Thành, cùng sự nỗ lực của tập thể cán bộ làm công tác sưu tập tài liệu, biên soạn, biên tập. Nhưng do tính chất lâu dài và phức tạp của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hồ sơ lưu trữ không đầy đủ...nên chắc chắn rằng quyển sách này vẫn còn những hạn chế nhất định trong việc phản ánh thực tiễn sinh động của chiều dài lịch sử địa phương. Chúng tôi xin chân thành đón nhận những ý kiến đóng góp bổ sung để trong lần tái bản, nội dung quyển sách sẽ hoàn chỉnh hơn, xứng đáng là một công trình ghi dấu toàn bộ lịch sử xã nhà.

Sau cùng, chúng tôi chân thành cảm ơn các cơ quan, đơn vị và cá nhân đã nhiệt tình ủng hộ và đóng góp vào công trình lịch sử này.

                                                                              Đảng ủy xã Bình Thành

 


LỊCH SỬ ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG VÀ XÂY DỰNG CỦA ĐẢNG BỘ-NHÂN DÂN XÃ BÌNH THÀNH (1930-1945)

 

 MỞ ĐẦU

BÌNH THÀNH-VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI

Trong ký ức của những bậc cao niên, Bình Thành nằm ở một góc trời biên giới xa xôi, đất rộng, người thưa, thiên nhiên còn hoang sơ như thuở ban đầu khai phá. Cư trú trên mảnh đất  này là những người dân hiền hòa, mộc mạc, quanh năm suốt tháng chăm chỉ làm ăn, vui cùng hạt lúa, con cá, củ khoai, chỉ mong sao được thanh bình, no ấm. Bên trong vẻ bình dị ấy, Bình Thành còn được mọi người biết đến với vai trò là một trong những chiếc nôi cách mạng, là căn cứ kháng chiến quan trọng của miền, của tỉnh từ  Khởi nghĩa Nam Kỳ cho đến ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Chính vì thế, Bình Thành đã vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Danh hiệu cao quý này là thành quả của quá trình lao động sản xuất, chiến đấu vô cùng kiên cường, dũng cảm và bền bĩ của đảng bộ và nhân dân nơi đây. Truyền thống cách mạng này đã góp phần tạo nên những đặc trưng cơ bản của lịch sử của địa phương, và đã trở thành tài sản tinh thần cực kỳ quý giá để tiến tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra. Ôn lại những chặng đường lịch sử của đất và người Bình Thành là thiết thực góp phần vào công tác giáo dục truyền thống cách mạng, giúp cho các thế hệ tiếp nối có đủ năng lực, bản lĩnh kế thừa và phát triển sự nghiệp cách mạng hết sức liệt oanh của cha anh.

Theo lời ông bà truyền lại, vào thời đằng cựu, vùng đất Bình Thành ngày nay vẫn còn hoang vu, thưa thớt dấu chân người. Đến khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta (1859), nhiều sĩ phu yêu nước đã chiêu mộ nghĩa quân đứng lên chống giặc, trong đó có Trương Định ở Gò Công. Sau mấy năm cầm cự, Trương Định hy sinh, có 2 anh em ông Huỳnh Đức là nghĩa quân của Trương Định đã chạy lên vùng Bình Thành, lập căn cứ kháng chiến ở  Tràm Ba Làng. Sau đó, giặc  Pháp đem quân lên đàn áp cuộc khởi nghĩa và bình định thành công nên mới đặt tên cho vùng này là làng Bình Thành. Về phần hai anh em ông Huỳnh Đức, sau khi mất được dân làng  tôn làm tiền hiền và lập hai cái đình để thờ. Mỗi năm, vào ngày rằm tháng giêng âm lịch, dân làng Bình Thành cúng đình thờ hai ông 1 con heo, gọi là cúng Kỳ yên. Người anh được chôn cất ở Giồng Cát, còn người em được chôn ở nghĩa địa Cỏ Ống phía Nam của xã. Trước đây, vào dịp cuối năm, nhân dân Bình Thành tảo mộ 2 ông trước rồi mới tảo mộ tổ tiên của mình sau để thể hiện tấm lòng tri ân đối với người đã có công lao đánh giặc và khai hoang mở đất.

Về sử liệu chính thống, qua khảo cứu các thư tịch cổ, ta biết được Bình Thành là một địa danh xuất hiện khá sớm. Theo địa bạ triều Nguyễn được lập năm 1836, Bình Thành là một thôn thuộc xứ Giồng Cát, tổng Bình Cách Trung, huyện Thuận An, phủ Tân An. Địa bạ cũng cho biết là vào thời điểm 1836, thôn Bình Thành mới được thành lập, có địa giới rất rộng, trải dài hàng chục km từ biên giới xuống đến kinh Trà Cú Hạ (kinh Thủ Thừa ngày nay) nhưng chỉ có khoảng 3 mẫu 4 sào ruộng mới khai khẩn, thuộc 2 chủ sở hữu, và 1 sở đất thổ cư, còn lại là rừng rậm hoang vu1. Năm 1837, vua Minh Mạng đổi huyện Thuận An thành huyện Cửu An, chia địa bàn huyện Cửu An thành 4 tổng là Cửu Cư Thượng, Cửu Cư Hạ, An Ninh Thượng, An Ninh Hạ. Lúc bấy giờ, thôn Bình Thành thuộc tổng Cửu Cư Thượng, huyện Cửu An, phủ Tân An. Sau khi chiếm xong 6 tỉnh Nam Kỳ, vào năm 1867, thực dân Pháp sắp xếp lại địa giới hành chánh, cắt thôn Bình Thành sang địa giới huyện Tân Long, khu tham biện Chợ Lớn.  Đến năm 1877, thực dân Pháp lại trả thôn Bình Thành về huyện Cửu An, khu tham biện  Tân An. Năm 1920, thực dân Pháp đổi huyện Cửu An thành quận Thủ Thừa, lúc này, làng Bình Thành thuộc tổng Cửu Cư Thượng, huyện Thủ Thừa. Ranh giới Bình Thành lúc bấy giờ rất rộng lớn, hướng bắc giáp làng Mỹ Thạnh, Thạnh Lợi và Bình Đức, phía nam giáp làng Bình Phong Thạnh, phía đông giáp làng Mỹ Thạnh và Bình Hòa, hướng tây giáp biên giới Cam-pu-chia và các xã Phong Phú, Thuận Nghĩa Hòa, Long Ngãi Thuận, Mỹ Lạc Thạnh. Dân số của làng Bình Thành lúc bấy giờ chỉ khoảng từ 300 - 400 người.  Cho đến năm 1954, chính quyền thuộc Pháp vẫn giữ nguyên cách phân chia địa giới hành chính này.

Về phía cách mạng, vào năm 1948, Ủy ban Kháng chiến-Hành chánh Nam Bộ ra quyết định thành lập Quân khu Đông Thành trực thuộc Khu 7 gồm các xã ven sông Vàm Cỏ Đông, trong đó có xã Bình Thành. Năm 1949, Quân khu Đông Thành được đổi tên thành khu Đông Thành rồi huyện Đông Thành, thuộc tỉnh Chợ Lớn. Ngày 12/5/1959, xã Bình Thành được chia làm hai, phần phía Bắc kinh Ngang có tên là Bình Thành Bắc, phần phía Nam kinh Ngang có tên là Bình Thành Nam, đều thuộc huyện Đông Thành. Năm 1951, huyện Đông Thành được nhập vào huyện Đức Hòa, lấy tên là huyện Đức Hòa Thành, thuộc tỉnh Gia Định Ninh.

Năm 1956, Tổng thống ngụy quyền Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh 143/NV thành lập tỉnh Long An trên cơ sở sát nhập tỉnh Tân An và tỉnh Chợ Lớn. Lúc bấy giờ xã Bình Thành có diện tích 112,4 km2, dân số khoảng 1500 người, thuộc quận Thủ Thừa, tỉnh Long An. Về phía cách mạng, từ năm 1959, sau khi địch thành lập quận Đức Huệ, tỉnh ủy Long An đã thành lập huyện Đức Huệ gồm 8 xã: Bình Thành, Mỹ Quý Đông, Mỹ Quý Tây, Bình Hòa Bắc, Bình Hòa Nam, Mỹ Thạnh Đông, Mỹ Thạnh Tây, Mỹ Thạnh Bắc để thuận tiện cho việc chỉ đạo. Như vậy, từ năm 1959 đến 1975, về hành chính, đối với chính quyền cách mạng, xã Bình Thành thuộc huyện Đức Huệ, còn đối với ngụy quyền, xã Bình Thành thuộc  huyện Thủ Thừa.

 Sau ngày thống nhất đất nước, Bình Thành trở thành một xã thuộc huyện Đức Huệ, tỉnh Long An. Ngày 26/6/1989, theo Quyết định số 74-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, 948 ha đất tự nhiên và 70 nhân khẩu của xã Bình Thành  được tách ra đế nhập vào xã Thuận Nghĩa Hòa, huyện Đức Huệ. Sau khi phân vạch lại địa giới hành chính, xã Bình Thành còn 8361,16 ha diện tích tự nhiên và 4055 nhân khẩu. Ngày 24/3/1994, theo quyết định số 27-CP của Chính phủ, phần đất phía Tây của xã Bình Thành được tách ra để thành lập 1 xã mới, có tên là xã Bình Hòa Hưng. Lúc này, xã Bình Thành còn lại 4559 ha diện tích đất tự nhiên và 3839 nhân khẩu. Ngày 15/5/2003, phần đất phía Bắc của xã Bình Thành lại được tách ra để thành lập một xã mới, có tên là Mỹ Bình. Hiện tại, xã Bình Thành có diện tích tự nhiên 2589,5ha, dân số 2205 nhân khẩu, được chia làm 4 ấp, phía Đông giáp xã Bình Hòa Bắc, phía Tây giáp xã Bình Hòa Hưng, phía Nam giáp xã Bình Hòa Nam, phía Bắc giáp xã Mỹ Bình.

Về vị trí địa lý, Bình Thành là vùng bưng trấp nằm giữa hai con sông Vàm Cỏ Tây, giáp giới với vùng Đồng Tháp Mười rộng lớn và dựa lưng vào biên giới Việt Nam - Campuchia với đường biên giới dài 9,7km. Địa hình nơi đây khá hiểm trở, phần đất đai còn hoang vu, mọc đầy các loài cây hoang dại như tràm, sậy, đưng, bàng....với nhiều bưng trấp xen lẫn với những giồng đất cao như: trấp Bàu Cối, trấp Kiến, trấp Vuông, trấp Xéo, trấp Ngang, trấp Ba Ngọn, trấp Ngang, trấp Mớp Xanh, trấp Mỏ Cộ, trấp Lết, giồng Ông Bạn, giồng Cây Xoài, giồng Manh Manh, Giồng Bộ Sô, giồng Cát....Đất đai nơi đây cũng đặc biệt hơn những nơi khác: có những vùng bưng trấp trũng thấp, cỏ mọc lâu ngày mục nát, chồng chất lâu ngày, biến thành một loại sình lầy không chân, lúc nào cũng bồng bềnh và sẵn sàng vùi lấp bất cứ thứ gì lọt vào mà ngày nay vẫn còn lưu dấu qua tên gọi trấp Rùng Rình. Trước thế kỷ XX, nơi đây hầu như không có đường giao thông. Mùa khô, nước rút cạn, những rạch nhỏ, kinh mương ở đây biến thành những đường nước sền sệt, không thể đi xuồng, cũng không thể đi bộ. Vì thế, muốn vào sâu trong đất Bình Thành, phải băng qua hàng chục km đồng khô cỏ cháy. Vào mùa nước nổi, chỉ có thể chống xuồng vẹt cỏ đi theo một số ít kinh rạch, đường long (do trâu đi lâu ngày tạo thành)...quanh co giữa vùng bưng  mọc đầy bàng, đưng, sậy, tràm gió, bông súng, bông sen...Vào những thập niên đầu thế kỷ XX, trong chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai, thực dân Pháp đã cho đào một số con kinh để rửa phèn, tiêu úng ở khu vực Bắc Thủ Thừa. Trong số đó, có những con kinh nằm trên địa phận Bình Thành, mà quan trọng nhất là kinh Trà Cú Thượng (dài 15,5km, nối sông Vàm Cỏ Đông với sông Vàm Cỏ Tây, kinh Bo Bo (còn gọi là kinh Đứng, dài 25 km, nối kinh Trà Cú Thượng với kinh Thủ Thừa). Những con kinh này trở thành đường giao thông quan trọng và tạo điều kiện để đẩy nhanh tốc độ khai thác đất đai của khu vực Bắc Thủ Thừa, trong đó có xã Bình Thành. Tuy là xã có diện tích rất rộng[1], nhưng đa số là đất bưng sâu, nhiều cỏ dại, không thuận lợi cho việc trồng lúa. Vùng đất giồng tốt hơn thì đã bị những người làm tay sai cho Pháp, có chức vị trong bộ máy cai trị ở làng, ở quận chiếm đoạt hết. Những người nông dân không có đất sản xuất đành phải chấp nhận phận tá điền, mướn ruộng của địa chủ để làm với giá tô cắt cổ. Do ruộng đất ở đây không màu mỡ, cây lúa bị chim, chuột, sâu rầy, lũ lụt phá hoại thường xuyên nên năng suất rất thấp, đời sống nông dân vô cùng khó khăn, thiếu thốn. Cuối mùa, sau khi nộp tô cho chủ đất xong, người may mắn lắm thì còn đủ lúa ăn đến vụ sau, còn phần đông thì thiếu ăn, phải vay nặng lãi, rơi vào vòng nợ nần mãn kiếp. Họ buộc phải bươn chải, lặn lội trong chốn bưng sâu để nhổ bàng, cắt đưng, moi củi lụt, bắt cá kiếm sống. Nói chung, vào giai đoạn trước năm 1945, chỉ có 10% dân cố cựu, đến khai phá đất Bình Thành trước là tương đối đủ ăn, còn lại 90% dân đến sau đều nghèo khổ, thất học. Tuy nhiên, nhân dân nơi đã sớm mang trong lòng tinh thần yêu nước yêu nước, bất khuất kiên cường, dám đứng lên để bảo vệ lẽ phải. Về cội nguồn, họ vốn là hậu duệ của những người đội trời đạp đất, khí phách hiên ngang, không cam chịu sống trong cảnh áp bức bất công hoặc vì bất mãn với chế độ thực dân, phong kiến nên đã rời bỏ quê hương tìm đến vùng bưng trấp hoang vu để tự tạo cho cho một cuộc sống mới. Những nghĩa binh chống Pháp thất trận, những nông dân nghèo không đóng nổi sưu cao thuế nặng, những người bị chính quyền truy nã cũng đều tụ hội về vùng đất này. Thiên nhiên bao la, rộng lớn, cá nước, chim trời, đã rèn đúc cho họ tinh thần nghĩa khí, cởi mở, dám nói, dám làm, sẵn sàng sống chết vì anh em, bạn bè. Do không được đào tạo bằng chữ chữ nghĩa thánh hiền nên họ nhận thức lẽ sống và chuẩn mực đạo lý ở đời theo một nghĩa riêng, mang nặng tính thực tế, phóng khoáng, không hào nhoáng, câu nệ vào khuôn phép. Trong tư tưởng của cư dân sống trên mảnh đất Bình Thành, việc nghĩa ở đời là cứu dân, cứu nước, để có một xã hội công bằng, bình đẳng. Vì thế, họ đã một lòng theo Đảng mà không quản ngại gian khổ, hiểm nguy, tù đày, chết chóc, để bảo vệ quê hương, làng xóm, cơ nghiệp mà thế hệ cha ông đã dày công gầy dựng. Con người và thế hiểm về đất đai đã góp phần tạo nên cho Bình Thành vai trò lịch sử hết sức quan trọng: là căn cứ địa cách mạng liên tục từ Nam Kỳ khởi nghĩa cho đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Bình Thành là vùng bưng trấp sình lầy, tàu xe của địch muốn vào phải vượt qua rất nhiều khó khăn, trở ngại. Đây là nơi tiếp giáp giữa miền đông và miền tây Nam Bộ, dựa lưng vào biên giới Việt Nam - Campuchia, mở rộng về phía tây thì liên kết với chiến khu Đồng Tháp Mười rộng lớn, mở rộng về phía đông là đến với chiến khu rừng già Đông Nam Bộ, khi cần, có thể đưa lực lượng tạm lánh qua biên giới. Vì vậy, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ngoài vai trò căn cứ cách mạng, Bình Thành còn là hành lang chiến lược quan trọng nối liền miền Đông với miền Tây Nam Bộ, đồng thời nối liền vùng biên giới xuống các huyện phía Nam của tỉnh. Cũng vì vậy mà địch đã dùng bom tấn pháo bầy chà đi xát lại, đánh phá dữ dội xã Bình Thành hòng ngăn chặn tuyến hành lang chiến lược của cách mạng. Trong hoàn cảnh ác liệt ấy, lịch sử đã đặt lên đôi vai đảng bộ, quân và dân nhiệm vụ hết sức nặng nề là phải bảo đảm sự  lưu thông của tuyến đường hành lang bằng mọi giá. Vượt qua mọi gian khổ hy sinh, đảng bộ, quân và dân Bình Thành đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này. Có thể nói rằng công tác bảo vệ hành lang là nhiệm vụ xuyên suốt của Bình Thành trong hai thời kỳ kháng chiến, nhất là trong kháng chiến chống Mỹ.

 So với những căn cứ khác, Bình Thành rất gần và có mối quan hệ mật thiết với vùng Sài Gòn - Chợ Lớn. Từ Bình Thành, ta có thể dễ dàng nắm vững tình hình hoạt động của giặc và bất ngờ đưa lực lượng chính trị vũ trang thọc sâu vào sào huyệt của chúng khi thời cơ cho phép. Vì thế, từ Bình Thành ta có thể tạo thành một thế trận liên hoàn, thiên biến vạn hóa, vừa rộng vừa hẹp, bề ngoài chỉ là một vùng đất hoang vu nhưng lại ngầm chứa một sức mạnh lớn lao. Chính vì thế, từ sau khi Đảng ra đời Bình Thành đã sớm được chọn làm khu căn cứ của các lực lượng cách mạng để lật đổ ách thống trị của kẻ thù xâm lược. Chính những đặc trưng nêu trên đã góp phần tạo nên nét son truyền thống và là niềm tự hào của Đảng bộ và nhân dân Bình Thành.

 


PHẦN MỘT

BÌNH THÀNH TRONG CUỘC CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ DO ĐẢNG LÃNH ĐẠO (1930-1975)

 

CHƯƠNG  MỘT

 NHÂN DÂN BÌNH THÀNH ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG VÀ KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930-1945)

I. Tổ chức Đảng ra đời và lãnh đạo các phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Bình Thành.

Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nhân dân Bình Thành đã tham gia một số phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược do các thủ lĩnh nông dân và trí thức yêu nước lãnh đạo. Theo lời kể của các cụ già, sau khi Trương Định hy sinh, một số nghĩa quân đã chạy lên khu vực Tràm Ba Làng ở Bình Thành lập căn cứ tiếp tục kháng chiến. Nghĩa quân do Nguyễn Trung Trực lãnh đạo cũng đã từng hoạt động ở Bình Thành trong những năm 1861 - 1867. Di vật của nghĩa quân đã được các chiến sĩ Nam Kỳ khởi nghĩa tìm thấy tại Nền Thứ  thuộc vùng căn cứ Mớp Xanh vào năm 1941[2]. Đó là 1 hòm đựng 50 quả đạn tròn bằng gang để bắn súng thần công xưa kia. Tuy nhiên, các cuộc khởi nghĩa vũ trang chống Pháp nói trên đều không thành công, bị giặc dìm trong bể máu.

Đến những thập niên đầu thế kỷ XX, phong trào Thiên Địa hội, phong trào hội kín Phan Xích Long, hội kín Nguyễn An Ninh đã lan rộng đến vùng bắc Thủ Thừa. Ở làng Bình Thành,  một số người có tư tưởng yêu nước, đứng đầu là ông Mười Thủ đã lập nên Hội Miếu để tập hợp, đoàn kết nhân dân, chống lại ách thống trị của chính quyền thuộc địa và bè lũ tay sai. Các thành viên trong hội quyên góp tiền bạc, vật chất giúp đỡ nhau khi có tai nạn, chết chóc và bênh vực nhau chống lại sự đè nén của bọn tề làng bằng vũ lực. Tuy những hoạt động này không đạt được kết quả rõ ràng, nhưng đã góp phần khơi dậy tinh thần yêu nước, đấu tranh đòi quyền sống của nhân dân Bình Thành.  Tinh thần ấy cứ sục sôi, âm ỉ trong lòng mọi người để chờ đợi một chính đảng có đủ năng lực, bản lĩnh, đường lối đúng đắn ra đời để lãnh đạo họ đấu tranh cởi bỏ xích xiềng nô lệ.

Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam. Ngay sau đó, những  chi bộ Đảng đầu tiên đã lần lượt xuất hiện và nhanh chóng lan rộng trên địa bàn tỉnh Chợ Lớn, tỉnh Tân An. Tại quận Thủ Thừa, tháng 4/1930, chi bộ làng Bình Nhựt ra đời do đồng chí Phạm Văn Khương làm bí thư. Vào những năm 1931-1932, đồng chí Phạm Văn Khương đã đến tổng Cửu Cư Thượng làm công tác tuyên truyền, vận động quần chúng để xây dựng cơ sở Đảng. Tại làng Bình Thành, một số người có tư tưởng yêu nước đã được đồng chí Phạm Văn Khương giác ngộ chủ nghĩa Công sản như Đào Văn Xồi, Nguyễn Văn Đua...Trong thời gian này, đồng chí Hai Giống (anh ruột đồng chí Trần Trung Tam - Bí thư tỉnh ủy Tân An giai đoạn  1939-1941), đảng viên chi bộ Hựu Thạnh - đã đem gia đình lên làng Bình Thành sinh sống để tránh sự ruồng bố, đàn áp của giặc Pháp. Đồng chí Hai Giống đã bắt liên lạc với những hạt nhân tích cực ở Bình Thành để khơi dậy ngọn lửa đấu tranh cách mạng của nhân dân nơi đây. Khoảng năm 1935, một số cơ sở cách mạng ở làng Bình Thành được xây dựng. Qua mối liên hệ với đồng chí Trần Trung Tam, thông qua đồng chí Hai Giống, phong trào đấu tranh cách mạng ở làng Bình Thành nhận sự  giúp đỡ và chỉ đạo trực tiếp của huyện ủy Đức Hòa[3].

Từ cuối nắm 1935, tình hình trong nước và thế giới có nhiều thay đổi theo hướng thuận lợi cho phong trào cách mạng. Năm 1936, Mặt trận Bình dân Pháp giành thắng lợi trong cuộc bầu cử Quốc hội, đứng ra thành lập chính phủ mới và thực hiện một số chính sách tiến bộ đối với các thuộc địa như: thả tù chính trị, thành lập Ủy ban điều tra tình hình thuộc địa, thi hành cải cách lao động. Nhân cơ hội này, Đảng thành lập Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương để đoàn kết toàn dân, tiến hành phong trào đấu tranh công khai, rộng rãi chống phát xít, đòi dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Lúc bấy giờ, nhà cách mạng Nguyễn An Ninh đã đưa ra sáng kiến tổ chức Đông Dương quốc dân đại hội (gọi tắt là Đông Dương đại hội) để thu thập nguyện vọng nhân dân, trao cho Ủy ban điều tra tình hình thuộc địa của chính phủ Pháp. Sáng kiến này được Xứ ủy Nam Kỳ tán thành và lãnh đạo thực hiện. Vì thế, ở cơ sở, Uûy ban Hành động của các làng được thành lập để tập hợp ý nguyện của đồng bào các giới, chuyển lên Đông Dương đại hội tổng hợp thành bản Dân nguyện.

Tại làng Bình Thành, Ủy ban Hành động đã được thành lập và đặt trụ sở tại tiệm tạp hóa của ông Đào Văn Xồi (Hai Xồi) ở ngã ba Bình Thành. Bề ngoài là tiệm tạp hóa, nhưng bên trong, nơi này chính là cơ sở cách mạng, là địa điểm liên lạc và hoạt động của các đồng chí cấp trên như: Phạm Văn Khương, Trần Văn Đấu (Trần Mai Sanh), nữ đồng chí Ngô. Ủy ban Hành động làng Bình Thành thường hội họp tại tiệm tạp hóa của ông Hai Xồi và sử dụng nơi đây làm địa điểm trao đổi tin tức, tuyên truyền công khai bằng báo chí. Nhờ đó, nhân dân bắt đầu quan tâm tìm hiểu về hoạt động của Đông Dương đại hội, về quyền lợi dân sinh, dân chủ, về tiền công, giờ làm của người làm mướn và cấy gặt. Ngoài ra, làng Bình Thành còn thành lập hội Âm công ái hữu với khoảng 200 hội viên do ông Tư Tổng phụ trách. Hoạt động thường xuyên của hội là tương trợ, giúp đỡ nhau trong tang lễ cũng như sinh hoạt đỡi thường và lồng vào đó việc tuyên truyền cách mạng, vạch trần tội ác của thực dân Pháp và tay sai. Thông qua tổ chức Hội Âm công ái hữu và Ủy ban hành động, nhân dân Bình Thành đã nêu lên nguyện vọng thiết tha là “tự do, dân chủ, hòa bình, cơm áo” để Đông Dương đại hội tập hợp và chuyển cho Ủy ban điều tra tình hình thuộc địa của chính phủ Pháp. Sau khi Ủy ban Hành động bị thực dân Pháp giải tán vào cuối năm 1936, phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ ở Bình Thành vẫn tiếp diễn. Qua phong trào, nhân dân đã nhận thức được những quyền lợi thiết thân của mình và tự giác đấu tranh giành lấy những quyền lợi ấy. Bên cạnh đó, bọn địa chủ, cường hào cũng ngán ngại, không dám bắt nạt, làm khó dễ người nghèo như trước.

Trong những năm 1937-1939, nhiều cán bộ cách mạng như: Nguyễn Văn Tiếp, Phạm Văn Khương, Lưu Dự Châu, Lê Văn Tưởng... đã đến Bình Thành làm công tác tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê nin, vận động nhân dân đấu tranh chống thuế, chống đi xâu, không đi lính cho Pháp và được nhiều người hưởng ứng.

Từ tháng 9/1939, tình hình thế giới và trong nước  có nhiều thay đổi theo chiều hướng bất lợi cho cách mạng. Vì thế, Cao trào Dân chủ ở Nam Kỳ nói chung và Bình Thành nói riêng đi vào thoái trào. Tuy nhiên, qua cao trào dân chủ, tinh thần đấu tranh giành lấy những quyền lợi thiết thân của quần chúng được nâng cao. Một số cảm tình viên của Đảng đã được giác ngộ sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin và được kết nạp vào hàng ngũ của Đảng Cộng sản như : Lữ Văn Ngưu, Lê Văn Mão, Đào Văn Xồi, Lương Văn Thê, Huỳnh Văn Ngàn.

 Hoạt động của chi bộ Bình Thành trong thời gian cuối năm 1939 đến 1940 tập trung vào việc tuyên truyền, vận động quần chúng đấu tranh chống vơ vét sức người sức của, chống chính quyền thuộc địa bắt lính phục vụ cho chiến tranh thế giới lần 2 và chuẩn bị lực lượng tham gia Khởi nghĩa Nam Kỳ theo chủ trương của Xứ ủy.

Từ tháng 9/1940, Ban Chỉ đạo khơi nghĩa các cấp đã được thành lập. Ban chỉ đạo khởi nghĩa của tổng Cửu Cư Thượng là các đồng chí: Lê Văn Đèo, Tạ Văn Ưng. Trực tiếp lãnh đạo công tác chuẩn bị khởi nghĩa tại làng Bình Thành là các đồng chí đảng viên trong chi bộ. Vào thời điểm tháng 10/1940, chi bộ Bình Thành có 5 đảng viên, gồm các đồng chí: Lữ Văn Ngưu, Lê Văn Mão, Đào Văn Xồi, Lương Văn Thê, Huỳnh Văn Ngàn, do đồng chí Lữ Văn Ngưu làm bí thư. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, đội quân khởi nghĩa của làng Bình Thành được thành lập và tổ chức luyện tập ở khu vực Mớp Xanh, Tràm Ba Làng. Công tác sản xuất vũ khí thô sơ, may cờ, in truyền đơn, vẽ khẩu hiệu cũng được chi bộ khẩn trương tiến hành. Lúc bấy giờ, ở làng Bình Thành có ông Một Thưởng, lúc trước có đi lính tập cho Tây, được phong làm quan một (thiếu úy). Ông này có giữ  3 cây súng tại nhà. Theo kế hoạch khởi nghĩa, vào đúng 0 giờ đêm 22 rạng 23/11/1940, lực lượng khởi nghĩa làng Bình Thành sẽ đến nhà ông Một Thưởng tước súng, sau đó sẽ chiếm trụ sở tề làng và gia nhập vào lực lượng khởi nghĩa của tổng Cửu Cư Thượng tiến về chiếm quân lỵ Thủ Thừa.

Gần đến ngày khởi nghĩa, nghĩa quân tổng Cửu Cư Thượng đang hoạt động tại khu Mớp Xanh, Tràm Ba Làng đã đốt nhà tên Hội đồng Sầm ở làng Bình Hòa, khiến hắn hoảng sợ bỏ trốn. Hành động này đã làm lộ bí mật khởi nghĩa nên ông Một Thưởng đã giấu súng và lên Sài Gòn lánh mặt. Vì vậy khi khởi nghĩa nổ ra vào đêm 22 rạng 23/11/1940, nghĩa quân đến nhà ông Một Thưởng ở giồng Manh Manh lục soát mãi vẫn không tìm được súng. Sau đó, nhờ người cháu ruột ông Một Thưởng là Võ Văn Tông (Tư Tông) chỉ chỗ, quân khởi nghĩa mới tìm được 3 cây súng và đạn giấu ở giếng nước. Sau đó, nghĩa quân đã chiếm nhà việc và gia nhập vào lực lượng khởi nghĩa của làng Thạnh Lợi, Bình Hòa do đồng chí Trần Văn Đấu và Lê Văn Tưởng (Lê Chân) chỉ huy[4]. Trước khí thế mạnh mẽ của cuộc khởi nghĩa, bọn lính Pháp ở đồn Ngã ba Bình Thành phải rút chạy. Từ đó cho đến năm 1956, ở Bình Thành không còn đồn bót nào của địch.

Tối 23/11/1940, tỉnh ủy Tân An thông báo cho các quận biết cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn đã thất bại và chủ trương  đưa đại bộ phận lực lượng khởi nghĩa về vị trí hợp pháp, còn những đồng chí bị lộ thì tạm lánh đi nơi khác. Thực hiện chủ trương này, nhưng đồng chí trong lực lượng khởi nghĩa làng Bình Thành chưa bị lộ  đã trở về nhà, các đồng chí còn lại thì theo đồng chí Lê Văn Tưởng và Trần Văn Đấu rút vào khu Tràm Ba Làng.

Ngày 24/11/1940, giặc Pháp tung quân đàn áp, khủng bố cuộc khởi nghĩa trên toàn Nam Kỳ. Chúng dùng máy bay ném bom, đốt nhà, bắt người, dùng dây thép xâu vào lòng bàn tay cho phơi nắng đến chết hoặc ném xuống biển. Hàng ngàn chiến sĩ Cộng sản  đã bị bắt bớ, giết hại, tù đày. Cuối tháng 11/1940, Quận  Hoài và Quản Sĩ dẫn 2 tiểu đoàn lính lê dương lên đóng tại Hội đồng Sầm để đàn áp cuộc khởi nghĩa khu vực bắc Thủ Thừa. Tại làng Bình Thành, cứ 2 - 3 ngày, quân Pháp lại càn bố vào giồng Cây Xoài, giồng Ông Bạn, trấp Lết ...một lần để bắt người, đốt nhà, cướp heo, gà, vịt của dân. Bọn chúng đã sát hại đồng chí Nguyễn Văn Dơn - một chiến sĩ Cộng sản trung kiên và bắt 4 đồng chí khác đày đi Côn Đảo. Trước sự khủng bố, đàn áp dã man của giặc Pháp, phần lớn nghĩa quân các tỉnh Tân An, Chợ Lớn, Gia Định ...đã rút về khu vực kinh Bo Bo, Mớp Xanh thuộc làng Bình Thành, Bình Hòa, Thạnh Lợi để bảo tồn lực lượng và chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa lần thứ hai. Lúc bấy giờ, vùng Bo Bo, Mớp Xanh  có đến hơn 300 nghĩa quân mà nòng cốt là nghĩa quân quận Thủ Thừa. Vì thế, giặc Pháp xem nơi đây là khu vực “cộng sản và hoạt động phiến loạn”, nơi đáng lo ngại nhất đối với chính quyền thuộc địa và tay sai.

Tháng 12/1940, tại Giồng Nổi, Tỉnh ủy Tân An đã họp cùng với đại diện của Xứ ủy và đi đến quyết định củng cố lực lượng nghĩa quân, xây dựng căn cứ du kích Mớp Xanh để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa lần hai. Thực hiện tinh thần cuộc họp nói trên, khu căn cứ Mớp Xanh được thành lập vào cuối tháng 12/1940, bao gồm  khu vực nằm giưa hai sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây, thuộc địa phận làng Bình Thành, Bình Hòa và Thạnh Lợi. Đây là vùng đất đai rộng lớn, mọc nhiều cỏ cây hoang dại, kinh rạch chằng chịt, nhiều bưng trấp, thuận lợi cho hoạt động du kích của nghĩa quân và khó khăn đối với giặc Pháp và tay sai. Ban chỉ huy căn cứ gồm 9 đồng chí, do đồng chí Lưu Dự  Châu làm trưởng ban. Giúp việc cho Ban chỉ huy có 5 tiểu ban gồm:

-Tiểu ban quân sự, tác chiến: đứng đầu là đồng chí Lê Minh Quang và Lê Văn Tưởng, có nhiệm vụ rèn luyện quân sự, chỉ huy chiến đấu, hỗ trợ nhân diệt tề trừ gian, bảo vệ căn cứ.

-Tiểu ban tạo tác vũ khí: đứng đầu là các đồng chí Trần Ngọc Hưng, Huỳnh Văn Xã, Dư, có nhiệm vụ tìm kiếm nguyên liệu, sản xuất vũ khí thô sơ như: dao găm, đạn chì, lựu đạn, bom tay...

-Tiểu ban tuyên truyền, báo chí: đứng đầu là đồng chí Nguyễn Văn Hung, Trần Văn Đấu, ra tờ dân cày, phát hành được 39 số với nội dung tuyên truyền, kêu gọi nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền.

Tiểu ban Y tế cứu thương: do lương y Hoài phụ trách, có nhiệm vụ cấo cứu chiến thương, điều trị một số bệnh thông thường cho nghĩa quân trên cơ sở tận dụng nguồn thuốc Nam có sẵn ở căn cứ.

-Tiểu ban tiếp tế: do đồng chí Lê Minh Xuân phụ trách và hai đồng chí ủy viên là đồng chí Phèn, đồng chí Giống. Tiểu ban này có nhiệm vụ giải quyết vấn đề quân lương, quân dụng và phương tiện phục vụ.

Ngoài ra, tòa án cũng được thành lập do đồng chí Trần Văn Đấu phụ trách để duy trì kỷ luật trong vùng căn cứ.

Nghĩa quân ở căn cứ Mớp Xanh đã đẩy mạnh công tác diệt tề trừ gian như: tước súng của Hương cả Tường,  Hương quản Long, Hương sư Khỏe, xử tử Phó hương quản Thạch...làm cho bọn tay sai ở Bình Thành, Bình Hòa, Mỹ Thạnh Đông hoang mang lo sợ. Ngày 28/12/1940, nghĩa quân đón đánh 5 xuồng chở 15 tên địch trên sông Vàm Cỏ Tây, diệt tên Tạ Văn Mao (Bếp Mao), bắn bị thương 5 tên khác, thu 2 súng. Ngày 12/2/1941, nghĩa quân hoạt động vũ trang tuyên truyền ở khu vực làng Bình Đức - Thạnh Lợi và diệt tên Hương quản Chánh. Đêm 16/2/1941, nghĩa quân đột nhập vào nhà của Hội đồng Sầm, bắn súng thị uy, phá kho lúa và lấy đi 20 giạ gạo.

Để đối phó với hoạt động của nghĩa quân, vào tháng 2/1941, Thống đốc Nam Kỳ đã thành lập 1 quận đặc biệt nằm trọn trên khu vực căn cứ Mớp Xanh của nghĩa quân, với tên gọi là quận Bình Hòa. Chúng đưa  Nguyễn Văn Hoài - một tên tay sai có kinh nghiệm “chống du kích Cộng sản”, nguyên là chủ quận Châu Thành, tỉnh Tân An về làm chủ quận Bình Hòa. Quận Hoài được giao nhiệm vụ phải phối hợp với các quận xung quanh thanh tra cảnh sát Pháp triệt hạ cho bằng được khu căn cứ Mớp Xanh. Vì thế từ tháng 2/1941, Quận Hoài và Quản Sĩ đã nhiều lần chỉ huy lính Mã tà, lính Bảo an, Hiến binh...càn bố khu vực căn cứ Mớp Xanh để tìm kiếm dấu vết của nghĩa quân, đốt phá tất cả địa hình nghĩa quân có thể trú ẩn. Chúng còn đe dọa nhân dân và phong tỏa sự tiếp tế của dân đối với nghĩa quân. Âm mưu của chúng là đẩy nghĩa quân vào khu  vực bưng trấp, nước phèn, nước thúi, đầy muỗi mòng....để nghĩa quân không còn con đường sống và tự tiêu vong.

Sau ba trận đánh với địch vào tháng 3/1941, một số chỉ huy chủ chốt của nghĩa quân như: Nguyễn Văn Đang, Võ Văn Lừa hy sinh, nghĩa quân bị nhiều tổn thất nên không có điều kiện duy trì căn cứ du kích và tiến hành khởi nghĩa lần hai. Vì thế, vào cuối tháng 3/1941, Xứ ủy cử đồng chí Nguyễn Văn Tiếp cùng 2 đại diện của tỉnh ủy Tân An là Trần Trung Tam, Võ Ngọc Quận  đến Mớp Xanh để truyền đạt chủ trương phân tán lực lượng, giải thể căn cứ.  Đồng chí Lưu Dự Châu được điều về làm Bí thư tỉnh ủy Gia Định, các đồng chí khác được phân công về các địa phương để gây dựng cơ sở Đảng. Tuy nhiên, vẫn còn một số nghĩa quân tiếp tục ở lại hoạt động ở căn cứ Mớp Xanh do đồng chí Lê Văn Của chỉ huy.

Ngày 2/4/1941, quân địch càn vào khu vực Ba Thu thuộc địa bàn làng Bình Thành, giáp biên giới Việt Nam - Campuchia và bắt được nghĩa quân Lê Văn Dâu (người đã tham gia trận phục kích tiêu diệt Quản Nên, Bếp Nhung ngày 23/11/1940). Ngày 20/4/1941, quân địch do Quản Sĩ chỉ huy đã càn bố vào khu vực Bàu Voi, làng Bình Thành. Nghĩa quân ở đây có 3 đồng chí đã dũng cảm chiến đấu với địch, nhưng vì lực lượng quá chênh lệch nên đồng chí Lê Văn Tiểng hy sinh, đồng chí Trịnh Văn Biệt bị thương. Ngày 30/5/1941, hơn một trung đội lính khố xanh và cảnh sát Pháp càn bố khu vực Bàu Mớp. Nghĩa quân ở đây chỉ có 10 người nhưng đã chiến đấu quyết liệt với địch, diệt và làm bị thương hơn 10 tên. Ngày hôm sau, nghĩa quân chỉ còn lại 4 đồng chí là Tư Đèo, Ba Cương, Út Tiến và Đặng Văn Tám. Sau khi chiến đấu đến viên đạn cuối cùng các đồng chí: Đặng Văn Tám, Ba Cương, Út Tiến hy sinh oanh liệt, đồng chí Tư Đèo bị thương nặng bất tỉnh, sau đó bò lết về giồng Thủ Tính, được nhân dân cứu sống. Gương hy sinh oanh liệt của các đồng chí nghĩa quân cuối cùng tại căn cứ Mớp Xanh đã được nhân dân Bình Thành trân trọng ghi nhớ. Vào năm 1947, chính quyền kháng chiến đã lấy tên đồng chí Ba Cương đặt tên cho cho 1 ấp của xã Bình Thành, gọi là ấp Tam Cương để  lưu niệm các nghĩa quân anh dũng này.

Sau khi các đồng chí nghĩa quân nói trên hy sinh, ở căn cứ Mớp Xanh hầu như không còn hoạt động du kích. Tuy thời gian tồn tại ngắn ngủi (khoảng hơn 4 tháng) nhưng căn cứ Mớp Xanh là niềm tự hào của nhân dân ta, là tiền đề cho sự  hình thành và phát triển của những căn cứ địa cách mạng sau này trên đất Bình Thành nói riêng và khu vực Bắc Thủ Thừa nói chung. Cùng với sự giải thể của căn cứ Mớp Xanh, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ của nhân dân Bình Thành đã kết thúc. Tuy không giành được kết quả như mong muốn, nhưng cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ đã chứng minh cho tinh thần dũng cảm, ý chí quật cường của nhân dân ta và để lại những bài học kinh nghiệm quý giá về thời cơ khởi nghĩa, xây dựng lực lượng, phối hợp hành động. Những kinh nghiệm này sẽ được vận dụng có hiệu quả trong cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám ở Bình Thành nói riêng và cả nước nói chung.

II.Nhân dân Bình Thành khởi nghĩa giành chính quyền trong  Cách mạng Tháng Tám:

Từ sau cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ, phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp của nhân dân Bình Thành tạm thời lắng dịu. Các đồng chí đảng viên rút vào hoạt động bí mật, chủ yếu làm công tác củng cố lực lượng, chờ thời cơ để lãnh đạo nhân dân tiếp tục cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do.

Từ năm 1942 trở đi, tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến quan trọng. Phe Đồng Minh dần dần thắng thế, quân Mỹ phong tỏa Đông Dương, cắt đứt giao thông giữa bọn Nhật tại chỗ với chính quốc. Vì thế, Đông Dương lâm vào cảnh thiếu thốn nhiên liệu trầm trọng. Bọn Nhật phải dùng lúa thay cho than đá, đem rượu cất thành alcool thay xăng, bắt dân nhổ lúa trồng đay, gây ra nạn đói khủng khiếp ở miền Bắc. Đồ tiêu dùng hàng ngày của nhân dân như vải vóc, dầu hỏa, thuốc men...cũng cực kỳ khan hiếm. Dưới ách thống trị cực kỳ tàn bạo, hà khắc của thực dân Pháp và phát xít Nhật, đời sống của nhân dân ta nói chung và nhân dân Bình Thành nói riêng hết sức lầm than, cơ cực. Bệnh dịch xảy ra liên miên, phần đông dân chúng đều thiếu đói, không có đủ quần áo mặc và thuốc chữa bệnh.

Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính hất cẳng Pháp, độc chiếm Đông Dương và giả vờ trao trả độc lập cho Việt Nam, dựng lên chính phủ bù nhìn do Trần Trọng Kim làm thủ tướng. Ngay trong đêm Nhật đảo chính Pháp, Thường vụ Trung ương Đảng đã họp và ra bản chị thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Trong bản chỉ thị này, Trung ương Đảng đã nhận định rằng:  từ lúc này, phát xít Nhật là kẻ thù chính  của nhân dân Đông Dương và quyết định phát động cao trào toàn quốc kháng Nhật cứu nước, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi có thời cơ thuận lợi.

Về phía nhật, để lừa mị nhân dân, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, chúng đã nuôi dưỡng các đảng phái, giáo phái phản động, lôi kéo lực lượng thanh niên làm hậu thuẫn. Thực hiện âm mưu này, vào giữa năm 1945, phát xít Nhật gợi ý cho bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đứng ra thành lập tổ chức Thanh niên Tiền phong ở Nam Kỳ. Nhân cơ hội ấy, Xứ ủy Nam Kỳ chủ trương lợi dụng vỏ bọc hợp pháp của tổ chức Thanh niên Tiền phong để tập hợp thanh niên, tiến tới xây dựng lực lượng vũ trang, đợi thời cơ nổi dâỵ giành chính quyền. Ngày 15/5/1945, tổ chức Thanh niên Tiền Phong được thành lập tại Nam Kỳ và ra mắt đồng bào vào ngày 1/6. Ngay sau đó, tổ chức Thanh niên Tiền phong đã  được phát triển đến tận cơ sở. Tại làng Bình Thành, vào tháng 7/1945, chi bộ Đảng đã phân công các đồng chí: Huỳnh Văn Ngàn, Huỳnh Văn Trái, Huỳnh Văn Quất, Lương Văn Thê, Lê Văn Phú...thực hiện công tác vận động, tập hợp thanh niên, xây dựng nên lực lượng Thanh niên Tiền phong. Lúc bấy giờ, những thanh niên cốt cán, khỏe mạnh trong làng đều gia nhập tổ chức Thanh niên Tiền Phong. Ban đầu, Thanh niên Tiền phong hoạt động tích cực trong chống bệnh dịch tả, giúp đỡ những gia đình nghèo khổ, bảo vệ an ninh thôn xóm. Sau đó, mỗi thanh niên được lệnh tự trang bị 1 cây tầm vông 1,6m, 1 sợi dây dài 2m quấn vào cây tầm vông, 1 dao găm hoặc mã tấu, sẵn sàng chờ lệnh cướp chánh quyền. Toàn bộ thanh niên trong lực lượng được tổ chức thành tiểu đội, trung đội để tập dợt đi đứng thành hàng ngũ vào mỗi buổi chiều. Chi bộ còn vận động một số người đã từng đi lính tập cho Pháp, có kiến thức về quân sự, võ thuật ra huấn luyện cho Thanh niên Tiền phong, tổ chức đi diễu hành các nơi trong làng, tạo thành không khí cách mạng hết sức sôi nổi.

Ngày 15/8/1945 Nhật đầu hàng đồng minh không điều kiện, bọn tay sai như rắn mất đầu, hoang mang lo sợ. Cơ hội ngàn năm một thuở đã đến. Ngày 19/8/1945, Hà Nội đã khởi nghĩa thành công. Tỉnh Tân An cũng đã chớp thời cơ, cướp chính quyền tại tỉnh lỵ vào chiều 21/8/1945. Cũng vào buổi chiều 21/8/1945, gần 200 Thanh niên Tiền phong làng Bình Thành dưới sự lãnh đạo của các đồng chí Huỳnh Văn Ngàn, Lương Văn Thê, Lê Văn Phú đã tiến về chợ Thủ Thừa để hỗ trợ cuộc khởi nghĩa ở quận lỵ. Sáng 22/8/1945, Thanh niên Tiền phong làng Bình Thành hợp cùng Thanh niên Tiền phong các làng trong quận được lệnh tiến về tỉnh lỵ Tân An tham gia cuộc mít-tinh mừng cách mạng thành công và dự lễ ra mắt của chính quyền cách mạng tỉnh Tân An. Chiều 22/8/1945, lực lượng Thanh niên Tiền phong làng Bình Thành trở về chiếm nhà việc tại Ngã ba Bình Thành, giải tán bọn tề làng, thành lập nên chính quyền cách mạng.

Sau 15 năm đấu tranh bền bĩ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Bình Thành đã lật đổ ách thống trị của thực dân-phong kiến, cởi bỏ xích xiềng nô lệ để được sống trong độc lập tự do, được làm chủ vận mệnh của mình. Từ đây, nhân dân Bình Thành  bắt đầu bước vào một giai đoạn lịch sử mới, đó là tiếp tục kháng chiến chống thực dân Pháp tái xâm lược, bảo vệ thành quả cách mạng vừa giành được.


CHƯƠNG HAI

BÌNH THÀNH TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1945-1975):

I. Chín năm kháng chiến chống Pháp(1945-1954):

Cách mạng Tháng Tám đã đem lại những đổi thay cực kỳ sâu sắc đối với nhân dân cả nước nói chung và nhân dân Bình Thành nói riêng. Mọi người hân hoan phấn khởi vì đã được thoát khỏi cảnh chim lồng cá chậu, cảnh tăm tối cơ hàn. Bởi thế, ai cũng hăng hái bắt tay vào việc xây dựng cuộc sống mới, chế độ mới. Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng lâm thời xã Bình Thành được thành lập với thành phần như sau:

-Đồng chí Huỳnh Văn Ngàn: Chủ tịch Ủy ban Hành chính.

-Đồng chí Võ Đắc Thùy: Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính.

-Đồng chí Trịnh Quang Vui: Ủy viên phụ trách quân sự.

Trụ sở Ủy ban Hành chánh lâm thời của xã được đặt tại Nhà Vuông-Ngã ba Bình Thành.

Chi bộ Đảng xã Bình Thành lúc bấy giờ do đồng chí Huỳnh Văn Ngàn làm Bí thư và đồng chí Võ Đắc Thùy làm Phó Bí thư.

Do chưa có kinh nghiệm và lực lượng còn non yếu nên công tác xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể của xã Bình Thành sau ngày cách mạng thành công còn gặp nhiều khó khăn lúng túng. Vì thế, huyện Thủ Thừa đã cử cán bộ về Bình Thành hướng dẫn công tác phát triển đảng để làm hạt nhân cho việc xây dựng, củng cố bộ máy đảng, chính quyền, Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể nhân dân. Ít lâu sau, một số cán bộ, đảng viên Bình Thành bị giặc Pháp bắt bỏ tù trước đây đã trở về xã tiếp tục công tác. Nhờ được tăng cường lực lượng và cấp trên giúp đỡ nên cho đến cuối tháng 9/1945, bộ máy chính quyền, Mặt trận và đoàn thể (Nông hội, Thanh niên, Phụ nữ) của Bình Thành đã được xây dựng xong. Lực lượng Tự vệ chiến đấu quân của xã cũng sớm được hình thành trên cơ sở của tổ chức Thanh niên Tiền phong trước kia để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Đảng, chính quyền, canh gác trụ sở làm việc, các cuộc hội nghị và giữ gìn trật tự, trị an trong xóm ấp.

Vượt qua những bở ngỡ, lúng túng ban đầu trong công tác quản lý các mặt của đời sống xã hội, chi bộ, chính quyền cách mạng xã Bình Thành đã lãnh đạo và tổ chức thực hiện những nhiệm vụ chính như sau:

- Xây dựng, kiện toàn bộ máy chính quyền, đoàn thể đến tận cơ sở.

- Củng cố lực lượng, trang bị vũ khí, huấn luyện quân sự cho lực lượng Tự vệ chiến đấu quân để đảm bảo công tác bảo vệ đảng, bảo vệ chính quyền, giữ gìn trật tự trị an.

- Trừng trị bọn ác ôn, giáo dục bọn tề làng cho về nhà làm ăn sinh sống.

- Ổn định đời sống nhân dân, tịch thu ruộng đất của bọn Việt gian phản động, quản lý ruộng vắng chủ, tiếp nhận ruộng đất của địa chủ tiến bộ chia cho dân nghèo.

Nhờ thực hiện tốt các nhiệm vụ trên, chính quyền cách mạng xã Bình Thành đã cơ bản xóa bỏ tàn dư của chế độ cũ, xây dựng chế độ mới, ổn định đời sống nhân dân, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, tạo tiền đề quan trọng để bước vào cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp.

Ngày 23/9/1945, giặc Pháp nổ súng tái xâm lược nước ta tại Sài Gòn. Trong buổi chiều hôm ấy, Ủy ban kháng chiến Nam Bộ đã phát lời tuyên cáo quốc dân và kêu gọi kháng chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi này, quân và dân Nam Bộ đã hình thành các mặt trận bao vây Sài Gòn,  cầm chân không cho địch ra khỏi thành phố càng lâu càng tốt để tạo điều kiện cho các cơ quan đầu não của Nam Bộ lui về nông thôn. Trong khi bộ đội đang chiến đấu quyết liệt với giặc Pháp thì các đơn vị thuộc các sư đoàn quân phiệt như: Đệ nhị, Đệ tam, Đệ tứ  sư đoàn đã bỏ chạy. Một bộ phận của Đệ tam và Đệ tứ sư đoàn đã chạy về Bình Thành, gây cho dân nhiều phiền nhiễu rồi sau đó tự giải thể. Đến cuối năm 1945, sau khi quân Pháp chọc thủng phòng tuyến xung quanh Sài Gòn và đánh chiếm ra các tỉnh xung quanh, một số đơn vị Vệ quốc đoàn đã về đóng quân ở khu vực Bắc Thủ Thừa, trong đó có xã Bình Thành để tiếp tục cuộc chiến đấu lâu dài với địch. Một bộ phận của lực lượng vũ trang tỉnh Tân An do đồng chí Lê Văn Của và Lê Văn Tao đã hành quân lên chiến đấu bảo vệ vùng biên giới Việt Nam - Campuchia. Hai mươi ba thanh niên xã Bình Thành đã tình nguyện gia nhập vào lực lượng này.

Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Thủ Thừa, chi bộ đảng Bình Thành đã lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể nhân dân chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến. Đội Tự vệ chiến đấu quân của xã được củng cố, tăng cường để làm công tác đắp mô, đào hầm trú ẩn, tuần tra canh gác, sẵn sàng chiến đấu. Công tác tuyên truyền vận động nhân dân đóng góp của cải, công sức để giúp đỡ, tiếp nhận các cơ quan, lực lượng vũ trang về Bình Thành lập căn cứ kháng chiến được thực hiện tốt. Các tổ chức đoàn thể cứu quốc như  Nông dân, Thanh niên, Phụ nữ, Phụ lão...được củng cố, phát triển và hoạt động sôi nổi. Nhân dân Bình Thành sẵn sàng bước vào công cuộc kháng chiến với hai nhiệm vụ cơ bản là đánh giặc giữ làng, bảo vệ vùng căn cứ cách mạng và tiếp tục xây dựng xã hội mới.

Thời kỳ này, trừ hoạt động quân sự, các hoạt động kháng chiến khác đều thông qua sự vận động và tổ chức của mặt trận Việt Minh. Vì vậy, việc thực hiện chương trình Việt Minh là hoạt động quan trọng và sôi nổi nhất lúc bấy giờ. Từ năm 1946, tỉnh bộ Việt Minh tỉnh Tân An đã mở nhiều lớp huấn luyện về “Chương trình Việt Minh” và “5 bước công tác cách mạng” tại khu vực tổng Cửu Cư Thượng để cụ thể hoá đường lối kháng chiến của Đảng, đề ra những công việc cụ thể cho các xã hoạt động. Ngoài ra, các đoàn thể như Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc...cũng mở các lớp huấn luyện cho cán bộ cơ sở thuộc ngành mình. Các đồng chí phụ trách Mặt trận Việt Minh xã, ấp và cán bộ đoàn thể ở Bình Thành đều được tham dự các lớp huấn luyện nói trên và trở về tổ chức thực hiện ở cơ sở, tạo thành những phong trào sôi nổi như: Hũ gạo nuôi quân, Tòng quân giết giặc, Bình dân học vụ, văn hóa - văn nghệ...

Từ năm 1946, những  cơ quan kháng chiến và đơn vị vũ trang đã rút về các chiến khu để xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Khu vực tổng Cửu Cư Thượng, trong đó có xã Bình Thành là một phần của chiến khu Đồng Tháp Mười, một trong 3 chiến khu lớn của Nam Bộ. Lúc bấy giờ, đã có 5/25 chi đội của Nam Bộ đã  đóng quân ở khu vực này để huấn luyện rồi tỏa ra đi tác chiến khắp nơi. Tháng 5/1946,  căn cứ Tân Uyên bị Pháp chiếm, Bộ tư lệnh Khu 7 đã về Vườn Thơm - Bà Vụ rồi sau đó dời cơ quan khu bộ về tổng Cửu Cư Thượng vào đầu năm 1947. Đại bản doanh của Nguyễn Bình - Tư lệnh Khu 7 - có lúc đặt tại Mớp Xanh, thuộc địa phận xã Bình Thành. Một số cơ quan của khu 7 cũng đóng rải rác ở địa phận xã Bình Thành. Ủy ban Kháng chiến - Hành chánh Nam Bộ và một số cơ quan trực thuộc cũng đã từng đóng ở Bình Thành một thời gian ngắn. Có thể nói rằng, từ đầu năm 1947, xã Bình Thành trở thành một trong những điểm căn cứ quan trọng nhất của Khu 7. Vì  thế, cấp ủy, chính quyền và nhân dân Bình Thành phải thực hiện cùng một lúc hai nhiệm vụ là: tiến hành công cuộc kháng chiến và đóng góp sức người, sức của và bảo vệ an toàn cho các cơ quan, đơn vị cấp trên.

Cuối năm 1946, theo lời kêu gọi của Mặt trận Việt Minh, khoảng 10.000 công nhân đồn điền cao su ở miền Đông Nam Bộ đã tổ thái độ bất hợp tác với Pháp bằng cách bỏ đồn điền, đốt phá vườn cao su, kéo ra vùng căn cứ kháng chiến. Khoảng 1000 người  được chính quyền cách mạng bố trí xuồng, ghe đưa qua khu vực tổng Cửu Cư Thượng để về Khu 8. Khi đoàn người băng ngang xã Bình Thành, do kinh rạch nhỏ, một số ghe lớn bị mắc cạn nên phải dừng lại để sang qua ghe nhỏ mới có thể đi tiếp. Vì vậy, đoàn người phải dừng lại ở xã Bình Thành 2 ngày. Đến ngày thứ 3 thì thực dân Pháp phát hiện và cho máy bay khu trục đến bắn phá, ném bom hủy diệt. Do không có hầm trú ẩn nên có 60 người chết, 133 người bị thương trong trận thảm sát này. Ngoài 33 người có thể chôn riêng, còn lại 27 người, trong đó có 2 trẻ em vì thi thể không còn nguyên vẹn phải chôn chung 1 nấm mồ tập thể tại đầu kinh Quản Điệu. Đây là tội ác dã man đầu tiên mà thực dân Pháp đã gây ra trên đất Bình Thành kể từ khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Cũng tại xã Bình Thành, vào đầu năm 1947, giặc Pháp đã ném bom hủy diệt cả đoàn xuồng, ghe của đồng bào đang chở thóc cho bộ đội trên kinh Ngang (kinh Trà Cú Thượng) làm nhiều người chết. Những cuộc thảm sát này càng làm cho đồng bào ta nói chung và nhân dân Bình Thành nói riêng sôi sục căm thù và quyết tâm biến đau thương thành sức mạnh để giáng trả cho kẻ thù những đòn sấm sét.

Tại Bình Thành, từ đầu năm 1947, đồng chí Lê Ngọc Vụ được bầu làm Bí thư chi bộ, nhưng chỉ vài tháng sau thì  từ chức. Vì thế, đồng chí Huỳnh Văn Ngàn được bầu lại làm Bí thư, đồng chí Đào Khắc Bửu làm Phó Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến - Hành chánh. Cho đến thời điểm này, Bình Thành là xã căn cứ, tình hình tương đối yên ổn, ít bị giặc càn quét. Đến khoảng tháng 3/1947, giặc Pháp mới mở cuộc càn quét quy mô vào khu vực Giồng Ông Bạn, Giồng Lức, Giồng Dinh với  ý đồ tiêu diệt các cơ quan đầu não và các đơn vị vũ trang của Khu 7 đang đóng tại đây.

Trước khi xảy ra trận đánh, Tổng hành dinh của đồng chí Nguyễn Bình tại Giồng Dinh có tổ chức 1 cuộc mít tinh lớn để chào mừng chi đội Hải ngoại 4 vừa từ Thái Lan về nước để tham gia kháng chiến. Khuya hôm ấy, ta được tin quân Pháp sẽ nhảy dù tấn công vào  căn cứ của ta, mà trọng điểm là Giồng Dinh - nơi đặt Tổng hành dinh của trung tướng Nguyễn Bình. Lực lượng ta tại căn cứ lúc này có 1 đại đội bảo vệ, 1 trung đội thuộc chi đội Hải ngoại 4, 1 tiểu đội thuộc Chi đội 12 và du kích các xã tổ chức cắm chông, đào hầm, đắp cản và bố trí trận địa chống lại cuộc càn quét của địch. Trong trận này, đội Tự vệ chiến đấu quân của xã Bình Thành được lệnh phục kích đánh địch ở Giồng Mật Cật. Tại Giồng Dinh và Giồng Thổ Địa, bộ đội tiêu diệt gần hai đại đội địch, thu nhiều súng ống, đạn dược. Tại giồng Giồng Mật Cật, Đội Tự vệ chiến đấu quân xã Bình Thành chủ động đón bắn địch ngay khi chúng vừa bung dù, chưa kịp hạ xuống đất, làm chúng lúng túng phải đánh rơi vũ khí. Vì mất vũ khí, nên khi tiếp đất, bọn địch buộc phải tập trung lại rồi rút chạy về Giồng Voi. Khi chúng rút đi, ta thu được 17 súng các loại, trong đó có súng 2 FM, khoảng 3000 đạn và lựu đạn. Dù của địch hôm ấy rơi trắng xóa cả cách đồng, có người dân lượm được cả 1 xe trâu đầy dù. Chiến thắng này đã làm nức lòng quân và dân Bình Thành. Sau trận đánh, có 27 thanh niên tình nguyện tham gia vào lực lượng vũ trang của xã. Được tăng cường về lực lượng và vũ khí chiến lợi phẩm, lần đầu tiên xã Bình Thành xây dựng được 1 trung đội vũ trang do đồng chí Bảy Gương chỉ huy. Chi bộ, chính quyền và nhân dân Bình Thành hết sức phấn khởi vì lần đầu tiên, ở xã có được 1 trung đội chính quy, vũ trang đầy đủ. Ngày trung đội ra mắt, đồng chí Nguyễn Bình có đến dự và đặt tên là trung đội Tiền Phong, do đồng chí Huỳnh Văn Ngàn làm Trung đội trưởng. Sau khi thành lập, trung đội du kích Bình Thành đã phối hợp cùng an ninh làm nhiệm vụ diệt ác trên địa bàn từ biên giới Việt Nam - Campuchia đến chợ Thủ Thừa. Có thể kể đến vài chiến công tiêu biểu của lực lượng vũ trang Bình Thành sau trận Giồng Dinh như:

- Trận đánh diệt 3 tên lính kín, thu 3 súng tại kinh Trà Cú sát bên chợ Thủ Thừa (1947).

-Trận bắt tên Sáu Thái (trưởng ban tình báo tỉnh Tân An) tại trại cưa Thủ Thừa, cách chỗ đóng quân của 1 trung đội lính Lê Dương Pháp chỉ 50m.

Những trận đánh trên đã chứng  minh cho sự dũng cảm, mưu trí của lực lượng vũ trang Bình Thành khi hoạt động ở địa bàn sát nách địch.

 Cuối năm 1947, trung đội du kích Bình Thành được đưa đi huấn luyện 3 tháng và trở thành lực lượng du kích thoát ly của khu Đông Thành, gia nhập vào lực lượng liên quân C theo lệnh đồng chí Nguyễn Bình.

 Từ năm 1947, các cơ quan kháng chiến và đơn vị vũ trang  về lập căn cứ ở tổng Cửu Cư Thượng ngày càng nhiều, nâng vị trí chiến lược của vùng đất này lên tầm cao mới. Vì thế, ngày 29/9/1948, Ủy ban Kháng chiến-Hành chánh Nam Bộ đã ra nghị định thành lập 1 khu vực đặc biệt, trực thuộc khu 7, lấy tên là Khu Đông Thành, bao gồm 5  xã:  Bình Thành, Bình Hòa, Mỹ Quý, Mỹ Thạnh, Thạnh Lợi. Từ khi có nghị định này, Khu Đông Thành trở thành căn cứ chính của Khu 7, đồng thời cũng là căn cứ hỗ trợ của tỉnh Chợ Lớn, Tân An. Tháng 11/1948, do căn cứ Vườn Thơm  thường xuyên bị giặc càn quét nên Tỉnh ủy Chợ Lớn và một số cơ quan trực thuộc đã về khu  Đông Thành, đóng rải rác từ vàm Sông Xoài đến kinh Ma Ren. Trên địa bàn xã Bình Thành, tỉnh ủy Chợ Lớn và các cơ quan trực thuộc đã đóng ở Mớp Xanh, Giồng Manh Manh, Giồng Ông Bạn.

Đầu năm 1949, cơ quan khu bộ Khu 7 từ khu Đông Thành chuyển lên  lập chiến khu mới ở Lạc An, khu Đông Thành được giao lại cho tỉnh Chợ Lớn. Vì thế, ngày 12/5/1949, Ủy ban Kháng chiến - Hành chánh Nam Bộ đã ra Nghị định giải thể khu Đông Thành, thành lập huyện Đông Thành, bao gồm phần đất Tây Bắc xã Bình Thành, xã Mỹ Thạnh Đông, xã Bình Hòa, xã Thạnh Lợi và xã Mỹ Quý.

Lúc bấy giờ xã Bình Thành cũng được tách làm hai, phần phía Bắc kinh Ngang là xã Bình Thành Bắc, thuộc huyện Đông Thành, phần phía Nam kinh Ngang là xã Bình Thành Nam, trực thuộc huyện Thủ Thừa. Về nhân sự  lãnh đạo, đồng chí Đào Khắc Bửu là Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến - Hành chánh xã Bình Thành Bắc, đồng chí Huỳnh Văn Ngàn là Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến - Hành chánh xã Bình Thành Nam. Một thời gian sau, đồng chí Đào Khắc Bửu hy sinh, các đồng chí Võ Phước Anh, Võ Đắc Thùy và Lê Công Thành lần lượt giữ nhiệm vụ Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến - Hành chánh xã Bình Thành Bắc cho đến tháng 8/1954.[5]

Tháng 3/1950, thực hiện nghị quyết của Tỉnh ủy về xây dựng căn cứ địa, Tỉnh ủy Chợ Lớn cùng các cơ quan dân, quân, chính đã về đứng chân ở  huyện Đông Thành. Lúc bấy giờ, trên địa bàn Bình Thành, nhất là xã Bình Thành Bắc có rất nhiều cơ quan, đơn vị thuộc tỉnh Chợ Lớn. Tỉnh ủy, Mặt trận Liên Việt và một số đoàn thể đóng ở Mớp Xanh, trấp Rùng Rình; Ty Công an đóng ở giồng Ông Bạn; Ty Thông tin đóng ở kinh Bo Bo; trại giam của Sở Công an Nam Bộ đóng ở trấp Ba Ngọn...Ngoài ra, tại  Giồng Ông Bạn, Giồng Bộ Sô, Giồng Cát, Giồng Cây Xoài, nhất là khu vực kinh Bo Bo, có rất nhiều các cơ quan, đơn vị của các tỉnh bạn,  các xã thuộc huyện Cần Đước, Cần Giuộc, Trung Huyện, Thủ Thừa...trú đóng.

Tóm lại, từ giai đoạn này cho đến 1954, Bình Thành là xã căn cứ, không có đồn bót giặc, hai ba tháng, thậm chí cả năm mới có giặc càn bố nên cán bộ, chiến sĩ và nhân dân được tương đối tự do đi lại và hoạt động dễ dàng. Các đơn vị và cơ quan ở Bình Thành xây dựng lán trại, nhà cửa, đào kinh rạch, trồng cây, tạo cơ ngơi khá khang trang. Chiều chiều, cán bộ, chiến sĩ trong căn cứ tổ chức thi đấu thể thao, sinh hoạt văn nghệ, thu hút đông đảo nhân dân đến tham gia.

Về phần mình, ngoài việc đóng góp sức người, sức của, nhân dân Bình Thành đã tích cực ủng hộ, giúp đỡ các cơ quan, đơn vị đóng trên địa bàn mình bằng cách cho mượn đất, trâu cày, lúa giống...tạo điều kiện cho cán bộ, chiến sĩ ta tự  túc lương thực, yên tâm công tác. Bà con nghiêm túc thực hiện việc phòng gian bảo mật bằng cách thực hiện khẩu hiệu “không nghe, không biết, không thấy” để bảo vệ an toàn cho vùng căn cứ cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, chính quyền xã Bình Thành Bắc và Bình Thành Nam, nhân dân đã tích cực tham gia phong trào tăng gia sản xuất, tòng quân giết giặc, tiếp tế chiến trường, đóng góp ủng hộ kháng chiến...Nếp sống văn hóa mới do các cơ quan, đơn vị bộ đội gương mẫu thực hiện dần dần lan rộng trong nhân dân. Những tệ nạn xã hội như đồng bóng, cờ bạc, say sưa, trộm cắp ...bị xóa bỏ, nhân dân biết giữ gìn vệ sinh, phòng chống dịch bệnh bằng cách thực hiện ăn chín uống sôi, ăn đũa hai đầu, sử dụng hố xí hai ngăn. Những hủ tục lạc hậu bị bài trừ, đám cưới, đám tang...đều được tổ chức theo đời sống mới, đơn giản mà trang trọng. Từ năm 1950, chi bộ, Ủy ban Kháng chiến - Hành chánh xã Bình Thành Bắc và Bình Thành Nam bắt đầu thực hiện Sắc lệnh “Quy định tạm cấp ruộng đất” của Chính phủ. Theo Sắc lệnh này, ruộng đất nằm trong diện tạm cấp bao gồm: ruộng công điền tịch thu của Việt gian, ruộng vắng chủ chính quyền đang quản thủ, ruộng “hiến điền” của địa chủ yêu nước. Hàng trăm ha đất của bọn địa chủ và đất hoang đã được cấp cho nhân dân, ngay cả những người ở trong hàng ngũ ngụy quân nhưng biết giác ngộ, quay súng về với cách mạng. Nhờ đó, đa số nhân dân Bình Thành đã có ruộng cày, cuộc sống của họ được cải thiện đáng kể. Qua đó, lòng tin của dân đối với Đảng được củng cố và nâng cao, nhân dân càng có thêm tài lực để ủng hộ cuộc kháng chiến. Nói chung, dưới ánh sáng của công cuộc kháng chiến, các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội của vùng đất Bình Thành đã thay đổi đáng kể. Từ một vùng đất rộng người thưa trước đây, Bình Thành đã trở thành khu căn cứ cách mạng, trung tâm kháng chiến của nhiều cấp, nhiều ngành, thu hút cả những đồng bào ở vùng tạm chiếm đến sinh sống.

Tháng 5/1951, Xứ ủy Nam Bộ đã đề ra phương hướng sắp xếp, tổ chức lại chiến trường theo hướng giảm bớt các đầu mối trung gian, sáp nhập nhiều tỉnh, chia lại chiến trường Nam Bộ thành phân liên khu miền Đông và phân liên khu miền Tây. Theo kế hoạch này, từ giữa năm 1951, huyện Đông Thành được sáp nhập với huyện Đức Hòa lấy tên là huyện Đức Hòa Thành, thuộc tỉnh Gia Định Ninh. Lúc bấy giờ, xã Bình Thành Bắc và Bình Thành Nam được hợp nhất thành xã Bình Thành. Đây là vùng căn cứ thuộc huyện Đức Hòa Thành, các đơn vị chủ lực và một số cơ quan  cấp trên đã rút đi nơi khác sau khi nhập tỉnh, nhưng đa số vẫn còn ở lại vùng căn cứ này. Ngoài vai trò là vùng căn cứ, Bình Thành còn là hành lang vận chuyển lương thực từ miền Tây lên miền Đông Nam Bộ. Mặc dù bị địch thường xuyên ném bom xăng đốt lúa, bắn giết trâu bò để triệt phá kinh tế, nhưng nhân dân Bình Thành vẫn hoàn thành tốt việc tăng gia sản xuất, đóng góp ủng hộ kháng chiến, đảm bảo sự thông suốt của hành lang vận chuyển lương thực lên miền Đông, đặc biệt là vào năn 1952, khi miền Đông bị lũ lụt phá hoại, xuất hiện nguy cơ thiếu đói nghiêm trọng.

Từ năm 1953, chi bộ, chính quyền xã Bình Thành tập trung vào công tác xây dựng đảng, xây dựng chính quyền, vận động nhân dân tăng gia sản xuất, thu thuế nông nghiệp gửi lại trong dân, vận động nhân dân tham gia các đoàn vận tải lương thực, lúa gạo về miền Đông. Cho đến đầu năm 1954, Bình Thành vẫn là xã căn cứ, ít khi bị giặc càn bố, tình hình tương đối yên ổn. Tình trạng trên được duy trì cho đến ngày ký kết Hiệp định Geneve, kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương (20/7/1954).

Trong cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), Bình Thành luôn là căn cứ địa vững chắc của cách mạng. Nhiều cơ quan, đơn vị từ cấp miền, đến cấp xã, nhất là các cơ quan, đơn vị thuộc Khu 7 và tỉnh Chợ Lớn đã có mặt trên đất Bình Thành trong suốt cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ nhưng hết sức oanh liệt ấy. Là một trong những địa bàn quan trọng nhất của khu căn cứ Đông Thành, vùng đất Bình Thành đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp ở Chợ Lớn, Tân An nói riêng và cả nước nói chung. Sự tồn tại và phát triển của căn cứ Bình Thành - một vùng đất hoang vu, nhiều bưng trấp, không có thế hiểm của núi rừng là minh chứng cho sức mạnh vĩ đại của nhân dân. Không có sự chở che, đùm bọc của nhân dân, Bình Thành không thể hoàn thành sứ mệnh quan trọng mà lịch sử đã giao phó. Đi đôi với công tác xây dựng phát triển lực lượng, bảo vệ căn cứ, chi bộ, chính quyền và nhân dân Bình Thành đã nỗ lực tăng gia sản xuất, làm tròn nhiệm vụ bảo vệ tuyến hành lang chiến lược nối liền miền Đông với miền Tây trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp. Đây là những thành tích đáng trân trọng, thể hiện sự tiếp nối truyền thống của một dân tộc anh hùng trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Với truyền thống vẻ vang ấy, Bình Thành tiếp tục trở thành căn cứ địa cách mạng của tỉnh ủy Long An trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược sau này.


II. Hai mươi mốt năm kháng chiến chống Mỹ (1954-1975):

1.Xây dựng, củng cố lực lượng cách mạng sau Hiệp định Geneve, đấu tranh phá thế kìm kẹp của địch, tiến tới vũ trang khởi nghĩa,  giải phóng hoàn toàn xã nhà ( 1954-1961)

Sau chín năm trường kỳ kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã buộc thực dân Pháp phải chấp nhận thất bại, ký kết Hiệp định Geneve về việc ngừng bắn, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Theo hiệp định này, sông Bến Hải trở thành giới tuyến quân sự tạm thời để phân chia hai miền Nam - Bắc. Từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc được hoàn toàn độc lập dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam còn thuộc quyền quản lý của thực dân Pháp và tay sai. Quân đội hai bên phải ngừng bắn từ ngày 20/7/1954 để tập kết, chuyển quân về khu vực quy định trong vòng 100 ngày. Hai năm sau ngày ký kết Hiệp định Gevene, sẽ có một cuộc tổng tuyển cử trên toàn quốc để thống nhất đất nước. Trong thời gian chờ tuyển cử, không bên nào được phân biệt đối xử, trả thù những người đã tham gia phía đối lập và phải bảo đảm thực hành tự do dân chủ, cải thiện dân sinh.

Về phía địch, để thực hiện âm mưu biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa, chia cắt lâu dài đất nước ta, đế quốc Mỹ đã nhảy vào thay chân thực dân Pháp, giật dây cho Ngô Đình Diệm truất phế Bảo Đại, dựng lên chính quyền bù nhìn tay sai ở miền Nam và trắng trợn phá hoại Hiệp định Geneve, hô hào lấp sông Bến Hải, tiến công miền Bắc. Mỹ - Diệm đã nhanh chóng thanh toán các thế lực chống đối thân Pháp như: Bình Xuyên, Cao Đài, Hoà Hảo và tiến hành các cuộc bắt bớ, thanh trừng, trả thù những người Cộng sản, đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân miền Nam. Trước tình hình trên, vào tháng 10/1954, Xứ uỷ Nam Bộ mở hội nghị tại Rạch Giá, quán triệt tình hình và xác định nhiệm vụ trước mắt là bám chặt địa bàn để lãnh đạo nhân dân và các lực lượng cách mạng đấu tranh chính trị đòi thi hành hiệp định, đòi hiệp thương tổng tuyển cử, thống nhất đất nước. Tất cả các địa phương chưa được sử dụng biện pháp vũ trang vì phải bảo vệ bằng được hòa bình, tạo điều kiện cho miền Bắc xây dựng Xã hội chủ nghĩa, trở thành hậu phương chiến lược, để cho các lực lượng cách mạng ở miền Nam có điều kiện củng cố vững chắc. Xứ ủy còn chỉ đạo những biện pháp cụ thể như duy trì các tổ chức Đảng theo hệ thống từ xứ đến cơ sở, các cấp ủy từ huyện trở lên phải rút vào bí mật; ở từng nơi, các chi bộ có thể tổ chức hai hình thức: chi bộ công khai và chi bộ mật; chuyển hình thức đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị, đảng viên sinh hoạt theo chi bộ mình cư trú và hạn chế tiếp xúc giữa các đảng viên nếu không có yêu cầu công tác để đảm bảo bí mật. Để đề phòng đối phương lật lọng, Xứ ủy chỉ thị cho các địa phương chôn giấu vũ khí và bố trí một số cán bộ quân sự  ở lại miền Nam.

Từ tháng 8 đến tháng 10/1954, xã Bình Thành được cấp trên phân công phụ trách công tác đón rước các cán bộ, chiến sĩ đi tập kết từ đầu lộ 8 qua  Nước Trong (Đồng Tháp Mười). Từ đây, sẽ có tàu ghe lớn tiếp tục đưa những cán bộ, chiến sĩ này về khu vực 100 ngày ở Cao Lãnh. Sau khi chôn giấu vũ khí, máy móc, phương tiện, sắp xếp, bố trí lại lực lượng, phân công người đi tập kết và người ở lại, chi bộ Bình Thành còn khoảng 20 đảng viên do đồng chí Huỳnh Văn Ngàn[6] làm bí thư. Theo chỉ đạo của cấp trên, chi bộ rút vào hoạt động bí mật, hoà vào quần chúng nhân dân theo khẩu hiệu “tam cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm). Đồng thời, chi bộ thành lập Ban Bảo vệ hòa bình để phụ trách công tác đấu tranh chính trị. Nội dung đấu tranh là dựa trên cơ sở pháp lý của Hiệp định Geneve để đòi lập lại quan hệ bình thường Bắc - Nam, đòi hiệp thương tổng tuyển cử để thống nhất đất nước sau 2 năm, đòi quyền dân sinh dân chủ... Ban Bảo vệ hòa bình chủ yếu là những người lớn tuổi và một vài thanh niên thực hiện công tác giao liên, truyền tin, tổ chức quần chúng đấu tranh chính trị, hướng dẫn quần chúng cách bảo vệ cán bộ và những người kháng chiến cũ. Các cuộc đấu tranh của quần chúng diễn ra liên tục, trung bình mỗi tháng từ 2 - 3 lần.

Lúc bấy giờ, Tỉnh ủy Chợ Lớn vẫn còn đóng tại Bình Thành từ Cù Lao xuống giồng Bộ Sô. Một thời gian sau, cơ quan Tỉnh ủy rút đi nơi khác, chỉ còn bộ phận bảo vệ căn cứ ở lại để chôn giấu vũ khí, máy móc, thanh lý tài sản và giúp đỡ lực lượng cách mạng địa phương.

Cuối năm 1954, sau khi các đơn vị vũ trang và những đoàn cán bộ cách mạng rút khỏi Bình Thành, địch bắt đầu xua quân chiếm đóng xã, lập đồn bót ở ngã ba Bình Thành, vực dậy bọn địa chủ tay sai để tái  lập bộ máy tề từ xã đến ấp với tên gọi mới là Hội đồng Hương chánh. Từ tháng 4/1955, sau khi truất phế Bảo Đại, Ngô Đình Diệm bắt đầu đàn áp các giáo phái thân Pháp đối lập. Quân đội Cao Đài do Trịnh Minh Thế, Văn Thành Cao, Nguyễn Thành Phương chỉ huy đầu hàng Ngộ Đình Diệm, Hộ pháp Phạm Công Tắc bỏ Toà thánh Tây Ninh chạy sang Campuchia. Một bộ phận lực lượng trung thành với Phạm Công Tắc gọi là Cao Đài ly khai đã rút vào khu vực Bắc Thủ Thừa tiếp tục chống lại Ngô Đình Diệm. Lực lượng Cao Đài ly khai đến đóng ở xã Bình Thành có 4 tiểu đoàn là: Hoàng Cưu, Võ Bá, Văn Kia, Hà Thế Anh do tên Đặng Thành Sử chỉ huy chung. Ngụy quyền xã Bình Thành cùng lính Cao Đài ly khai đã thi nhau cướp bóc, khủng bố, đánh đập trả thù các cơ sở cách mạng và những người kháng chiến cũ. Bọn lính ngày đêm càn quét, truy lùng khắp nơi từ trong xóm ra đến ngoài bưng, tề làng, chủ ấp tìm đủ mọi cách làm khó làm dễ nhân dân. Ngoài ra, còn có lực lượng thám báo luôn rình rập, trà trộn vào quần chúng để phát hiện, bắt bớ các cán bộ và cơ sở cách mạng. Vì thế, phong trào cách mạng xã Bình Thành gặp rất nhiều khó khăn. Cán bộ, đảng viên phải rút vào bí mật, hết sức đề cao cảnh giác, hoạt động theo phương châm “xâu chuỗi bắt rễ”, một người chỉ biết một người. Một số cán bộ, đảng viên gặp tình thế khó khăn đã hoang mang dao động, nghi ngờ lẫn nhau, nảy sinh tư tưởng cầu an, một số thoái hóa, biến chất sa vào bài bạc. Trong số này có cả bí thư chi bộ Huỳnh Văn Ngàn. Địch biết ông là cán bộ cách mạng thời chín năm, sau Hiệp định Gevene được Đảng phân công ở lại Bình Thành nên đã bắt ông đánh đập, tra tấn dã man. Do không chịu nổi đòn roi của kẻ thù, ông Huỳnh Văn Ngàn đã ra đầu thú. Sau sự kiện này, quyền lãnh đạo chi bộ Bình Thành được giao cho đồng chí Nguyễn Hoàng Phú (Huế) - Phó Bí thư chi bộ. Đồng chí Nguyễn Hoàng Phú chịu trách nhiệm giữ 3 khẩu súng nên bị địch lùng sục, truy nã ráo riết, vì thế, đồng chí phải chạy lên ẩn náu ở vùng Ma Ren, Mớp Xanh[7].

Từ  khi Ngô Đình Diệm và quân giáo phái đánh nhau, Trung ương Đảng ta đã chủ trương: tìm cách duy trì lực lượng giáo phái ly khai để gây khó khăn cho Diệm. Đến đầu năm 1956, trước tình hình lực lượng giáo phái ly khai ngày càng phát triển, Xứ ủy đã chỉ đạo các tỉnh đưa cán bộ, chiến sĩ vào giúp lực lượng Cao Đài, Hòa Hảo ly khai, vận động họ thành lập các ủy ban quân chính giáo phái và lực lượng tự vệ, du kích giáo phái các xã mà thành phần chủ yếu là người của ta. Các tổ chức này lấy danh nghĩa giáo phái nhưng phải hoạt động trừng trị ác ôn, trấn áp tề xã, tề ấp, công an, điềm chỉ, giúp đồng bào đấu tranh bảo vệ quyền lợi ruộng đất, đời sống, chống bắt lính...Thực hiện chủ trương này, ở vùng bắc Thủ Thừa, trong đó có xã Bình Thành, nhiều cán bộ, chiến sĩ mà nòng cốt là  các đồng chí Tư Đúng, Mười Xưởng, Bảy Xứng, Bảy Nửa...được đưa vào hoạt động trong lực lượng Cao Đài Phụng. Các đồng chí trên đã góp phần phân hóa lực lượng giáo phái ly khai, hạn chế hoạt động chống phá nhân dân của họ, đồng thời dựa vào danh nghĩa giáo phái ly khai để chống lại hoạt động chống phá cách mạng của bọn tay sai Ngô Đình Diệm. Giữa năm 1956, Ngô Đình Diệm tiến hành dụ dỗ, mua chuộc bọn chỉ huy giáo phái ly khai, đồng thời mở nhiều chiến dịch quân sự đánh mạnh vào quân đội giáo phái, vì vậy, lực lượng vũ trang giáo phái ly khai dần dần tan rã. Trước tình hình ấy, các cán bộ, chiến sĩ cách mạng trong những đơn vị giáo phái ly khai đã tìm cách lôi kéo những người tốt trong lực lượng này, vận động họ mang súng trở về với cách mạng. Các đồng chí Mười Xưởng, Tư Đúng, Bảy Xứng diệt tên Thái Khai để tách ra thành lập một đơn vị lấy tên là tiểu đoàn Quang Huy, hoạt động ở các xã thuộc khu vực bắc Thủ Thừa.

Từ năm 1955, tỉnh Tân An, Chợ Lớn đã tiến hành phân loại, sắp xếp đảng viên, trong đó những đồng chí bị lộ, bất hợp pháp được phép lánh đi nơi khác để bảo toàn lực lượng. Nhiều cán bộ, chiến sĩ đã lên vùng biên giới thuộc xã Bình Thành sống theo từng nhóm vài chục người. Từ khi có chỉ thị 17 của Trung ương về việc điều lắng, đổi vùng, số cán bộ cốt cán được đưa lên vùng biên giới Bình Thành ngày càng nhiều. Mọi người gọi đùa nhau đây là lực lượng “tử can” với ngụ ý ám chỉ những người có chí khí anh hùng, không khuất phục trước cường quyền như Tỉ Can trong truyện Phong thần, nhưng theo cách nói lái của người Nam Bộ thì hiểu là dân tản cư. Số cán bộ “tử can” này cùng với các đơn vị vũ trang hình thành từ quân giáo phái ly khai trở thành lực lượng vũ trang đầu tiên của tỉnh Tân An, Chợ Lớn từ sau Hiệp định Geneve, hoạt động trên vùng căn cứ Bình Thành. Có lực lượng quân sự trong tay, nhưng lúc bấy giờ Trung ương chưa cho phép đấu tranh vũ trang, vì vậy Liên tỉnh ủy Trung Nam Bộ đã thành lập cơ quan quân sự cấp khu, nấp dưới danh nghĩa Bộ Tư lệnh lực lượng lượng vũ trang giáo phái giải phóng do đồng chí Lê Văn Khuyên làm tư lệnh, đóng ở Trấp Tre. Các đơn vị vũ trang được gọi chung là lực lượng Cao Thiên Hòa Bình, lấy cờ xanh có chữ  vạn màu trắng làm quân kỳ.

Vào những năm 1955 - 1956, tình hình cách mạng xã Bình Thành gặp nhiều khó khăn, huyện ủy Thủ Thừa đã giới thiệu đồng chí Phan Thanh Hưng về phụ trách xã Bình Thành thay cho đồng chí Nguyễn Hoàng Phú. Nhưng chỉ vài tháng sau thì đồng chí Phan Thanh Hưng thôi giữ chức Phó Bí thư chi bộ vì đã bị kỷ luật từ trước khi chuyển về công tác ở xã Bình Thành. Từ khi các đơn vị Cao Thiên Hòa Bình được thành lập và hoạt động trên khu vực các xã Bắc Thủ Thừa, mối liên lạc của xã Bình Thành với Huyện ủy được nối lại. Được sự lãnh đạo và hỗ trợ của Huyện ủy, những đảng viên ở xã được tổ chức lại thành 1 chi bộ gồm 8 đồng chí là: Hai Thê, Mười Long, Út Nhuần, Hai Ngạn, Ba Tào Tưởng, Năm Thanh, Bảy Vui, Tám Xê. Bí thư chi bộ lúc này là đồng chí Phan Thái Hòa (Tám Hòa). Chi bộ tiến hành việc xây dựng, củng cố các tổ chức quần chúng, phát động phong trào đấu tranh chính trị chống bắt bớ, trả thù, gây mất đoàn kết, đòi tổng tuyển cử thống nhất Bắc - Nam, được nhân dân tích cực hưởng ứng. Bức xúc trước thực trạng bọn ngụy quân, ngụy quyền đang kìm kẹp nhân dân, khủng bố, trả thù lực lượng cách mạng, các đồng chí đảng viên trong chi bộ Bình Thành đều mong muốn thành lập lực lượng tự vệ vũ để trấn áp bọn tề xã, tề ấp, tiêu diệt ác ôn, thám báo, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh của nhân dân. Giữa năm 1956, bọn chỉ huy Cao Đài ly khai ở Bình Thành nghe theo lời dụ dỗ của Ngô Đình Diệm đã trở mặt, tìm giết cán bộ ta. Những cán bộ xã Bình Thành được cài vào lực lượng này lúc trước biết được ý đồ của giặc đã kịp thời tách ra, lấy được 4 khẩu súng và một số đạn. Cuối năm 1956, đầu 1957, Ngô Đình Diệm mở chiến dịch Trương Tấn Bửu nhằm mục đích tảo thanh quân giáo phái đang chiếm đóng vùng Đồng Tháp Mười và các tỉnh miền Tây. Ngay trong chiến dịch này, bọn lính Sư đoàn 13 ( Lổ tai heo) đã tràn vào xã Bình Thành và đóng đồn tại Ngã ba Bình Thành. Vì chủ quan, bọn chúng lo ăn chơi, đánh bài, súng ống bỏ thành từng đống. Được cơ sở báo tình hình này, chi bộ xã quyết định tổ chức lấy súng địch để thành lập đội tự vệ vũ trang. Đồng chí Tám Hòa - Bí thư chi bộ đã tổ chức cho 3 thanh niên là Lê Văn Trọng, Võ Văn Hải, Đặng Văn Trầm tìm cách lấy súng của Sư đoàn 13 vào ban đêm. Đêm đầu, không thành công, đêm sau, các đồng chí trên đã phối hợp cùng người của cách mạng cài trong lực lượng giáo phái là đồng chí Bảy Nữa lấy được  5 súng (2 trung liên, 1 tự động, 1 thompson, 1 carbine), 2000 viên đạn và 20 trái cối 60 ly.

Bị mất súng, bọn chỉ huy Sư đoàn 13 hết sức tức tối. Chúng khoanh vùng các đối tượng tình nghi và bắt giam 7 thanh niên xã Bình Thành là: Phu, Giao, Hùng, Bảy, Thế, Nhen, Chi. Một tháng sau, chúng thả 4 người và tiếp tục giam giữ 4 người là: Hùng, Phu và Giao. Bọn mật thám, lính làng thì ngày đêm rình mò, bắt bớ, đánh đập nhân dân hòng tìm ra thủ phạm lấy súng. Tuy nhiên, nhân dân cứ nói rằng: “Giáo phái lấy súng, chứ dân làm sao biết được”. Vì vậy, dù tức tối nhưng bọn chúng cũng không làm gì được.

Lấy được súng, chi bộ, nhân dân Bình Thành hết sức vui mừng, phấn khởi. Thanh niên trong xã nô nức xin gia nhập vào lực lượng vũ trang để được cầm súng chống giặc. Trước tình hình ấy, chi bộ Bình Thành báo cáo tình hình với Huyện ủy để xin ý kiến chỉ đạo. Cuối cùng, Huyện ủy đồng ý cho Bình Thành thành lập đội tự vệ vũ trang trên cơ sở chọn lựa những thanh niên tích cực trong xã. Chi bộ phải lãnh đạo trực tiếp lực lượng này để hướng họ làm theo mục tiêu, kế hoạch của Đảng. Phải lấy danh nghĩa hợp pháp cho lực lượng vũ trang vì chủ trương chung của Đảng giai đoạn này là chưa cho phép đấu tranh vũ trang công khai. Đồng thời, cần chuẩn bị các điều kiện về hậu cần, y tế, trang bị để lực lượng vũ trang hoạt động có hiệu quả.

Khi mới thành lập, đội tự vệ vũ trang xã Bình Thành có 10 người, do đồng chí Huỳnh Văn Ngày (Ba Ngày) chỉ huy, trú đóng trong vùng bưng sâu, làm công tác vũ trang tuyên truyền, vận động quần chúng đóng góp áo quần, gạo thóc, xuồng ghe để làm phương tiện hoạt động. Do làm tốt công tác dân vận nên đội vũ trang tuyên truyền Bình Thành được dân thương yêu, nuôi nấng, bảo vệ và ủng hộ, giúp đỡ hết mình. Với danh nghĩa là đơn vị vũ trang thuộc lực lượng Cao Thiên Hòa Bình, lực lượng vũ trang Bình Thành đã hoạt động vũ trang tuyên truyền trên địa bàn rất rộng dọc biên giới thuộc khu vực Bắc Thủ Thừa và Đồng Tháp Mười. Đến tháng 10/1957, khi khu bộ Tân An - Chợ lớn giải thể, các đơn vị vũ trang được sắp xếp lại, một số được đưa về Kiến Tường, một số ở lại Long An. Những cán bộ “Tử can” và lực lượng vũ trang Bình Thành được bổ sung vào lực lượng vũ trang Long An, thành lập nên Tiểu đoàn 506. Lúc bấy giờ, Tỉnh ủy Long An đã trở về Bình Thành và trú đóng ở Giồng Ông Bạn, Mớp Xanh, nhưng không ở lâu một chỗ mà linh động di chuyển qua lại vùng Trấp Rùng Rình, Giồng Két. Bình Thành lại trở thành một trong những địa bàn quan trọng nhất của căn cứ Tỉnh ủy Long An ngay những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Cho đến năm 1958, phong trào cách mạng xã Bình Thành vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Trước sự khủng bố ác liệt cửa kẻ thù, việc lui tới các cơ sở cách mạng cũng phải hết sức dè dặt. Đa số cơ sở còn ngại việc một số anh em bị bắt, không chịu nổi sự tra tấn, đánh đập của địch nên khai báo, làm lộ cơ sở. Vì thế, hoạt động của cán bộ, đảng viên Bình Thành giai đoạn này hết sức hạn chế. Đến tháng 8/1958, cấp trên cử đồng chí Lê Ngọc Châu (Mười Châu) về củng cố lại tổ chức Đảng xã Bình Thành. Sau khi được củng cố, xã Bình Thành có chi bộ bất hợp pháp do đồng chí Mười Châu làm Bí thư, đồng chí Võ Văn Nữa (Bảy Nũa) làm Phó Bí thư  và một số đảng viên hoạt động hợp pháp. Cũng vào năm 1958, địch đã lập khu trù mật, định dồn dân về sống tập trung ở ấp 3. Trước tình hình ấy, chi bộ Bình Thành đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh quyết liệt, không chịu về sống ở khu tập trung, làm thất bại âm mưu của địch.

 Tháng 10/1958, do tên Tòng làm công an mật của địch ở Tân An báo cáo, địch  nắm được danh sách 73 cán bộ và cơ sở bí mật xã Bình Thành còn ở lại miền Nam. Theo danh sách này, công an Long An và công an Thủ Thừa đã bắt 33 cán bộ và cơ sở cách mạng xã Bình Thành, trong đó có 4 nữ vào ngày 19/10/1958. Cũng trong ngày này, đồng chí Lữ Văn Xê (Tám Xê) cũng bị địch bắt tại kinh Bo Bo khi đang trên đường đi công tác tử Huyện ủy Thủ Thừa về xã Bình Thành. Chúng đã giải những người bị bắt về giam tại công an Thủ Thừa ngay trong đêm 19/10/1958. Trong tù, những người bị bắt đã giáo dục, động viên nhau quyết tâm giữ vững khí tiết cách mạng, không khai báo nửa lời. Vì thế, trong suốt 3 ngày, mặc dù phải nếm đủ mọi ngón đòn tra tấn dã man của địch, từ đánh đập, chích điện, đổ xà bông..., có người bị hộc máu, chết giấc nhưng không ai khai báo gì cả. Vì thế, địch giải mọi người về Ty Công an Long An vào ngày 22/10/1958 tiếp tục giam giữ. Đến ngày 30/10/1958, sau khi thất bại trong việc dụ dỗ, địch bắt đầu đánh đập, khảo tra dữ dội những cán bộ, cơ sở cách mạng xã Bình Thành suốt 7 ngày nhưng vẫn không khuất phục được tinh thần kiên trung bất khuất của mọi người. Chúng buộc phải thả 6 người và tiếp tục hành hạ tra tấn dã man 26 người còn lại. Lúc bấy giờ, nhân dân Bình Thành hết sức căm phẫn bọn phản gián, ngay cả một số tề làng uống rượu vào cũng chửi bọn này và nhổ cờ ba que phóng xuống sông Thủ Thừa. Vì thế, cuối cùng địch đã thả thêm 11 người (trong đó có 3 nữ), số còn lại, chúng đưa lên giam giữ ở khám Chí Hòa và đày đi Côn Đảo.

Tháng 3/1959, ngụy quyền Ngô Đình Diệm cắt 3 xã: An Ninh, Lộc Giang, Hiệp Hòa của quận Đức Hòa, hợp với 5 xã Mỹ Quý Đông, Mỹ Quý Tây, Mỹ Thạnh Đông, Mỹ Thạnh Tây, Bình Hòa của quận Thủ Thừa để thành lập  quận Đức Huệ. Về phía ta, vào tháng 5/1959, để thuận tiện trong công tác lãnh đạo nhân dân đấu tranh với địch, chính quyền cách mạng đã thành lập huyện Đức Huệ gồm 8 xã là: Mỹ Quý Đông, Mỹ Quý Tây, Mỹ Thạnh Đông, Mỹ Thạnh Tây, Mỹ Thạnh Bắc, Bình Hòa Bắc, Bình Hòa Nam và Bình Thành. Như vậy, từ thời gian này, đối với địch, xã Bình Thành thuộc quận Thủ Thừa, còn về phía cách mạng, xã Bình Thành thuộc quận Đức Huệ. Năm 1959 cũng là năm đánh dấu tính chất độc tài, phát xít, gia đình trị lên đến đỉnh cao của ngụy quyền Ngô Đình Diệm. Chúng đã ra đạo luật 91 (sau này gọi là luật 10/59), đặt những người Cộng sản ra khỏi vòng pháp luật, cho phép bọn tay sai được chém đầu bất cứ những ai là Cộng sản hoặc có liên hệ với Cộng sản mà không cần phải qua xét xử.  Luật 10/59 đã gây ra những thiệt hại to lớn cho lực lượng cách mạng miền Nam. Nhiều cán bộ, chiến sĩ đã chạy lên vùng căn cứ Bình Thành để bảo toàn lực lượng, tránh né sự khủng bố dã man của Mỹ - Diệm. Thực tế này cho thấy: không còn cách nào khác ngài việc dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kể thù. Đây cũng là cơ sở để Trung ương Đảng ra Nghị quyết 15 để chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cho cách mạng miền Nam.

Cuối năm 1959, tinh thần Nghị quyết 15 của Trung ương được quán triệt đến các tỉnh với nội dung cơ bản là: tiến hành khởi nghĩa, phá thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ ở cơ sở. Ngày 6/1/1960, Tỉnh ủy Long An họp hội nghị ở Giồng Ông Tưởng thuộc xã Bình Thành để triển khai Nghị quyết 15 và nghị quyết của khu ủy cho các huyện. Hội nghị đã quyết định phát động phong trào khởi nghĩa của quần chúng để đập tan bộ máy kìm kẹp của địch, giành quyền làm chủ ở xã ấp. Phương châm khởi nghĩa là dùng lực lượng vũ trang tiến công vào đồn bót và bộ máy kềm kẹp quần chúng ở thôn, xã để làm đòn xeo phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở cơ sở. Sau khi có nghị quyết của Tỉnh ủy, nhân dân Bình Thành vô cùng phấn khởi và náo nức chờ ngày vùng lên diệt ác phá kìm. Để thực hiện nghị quyết của Tỉnh ủy, cấp trên đã cử cán bộ về Bình Thành làm công tác củng cố lực lượng đảng viên và cán bộ còn lại, đồng thời phát triển thêm đảng viên mới và xây dựng nên 3 tổ du kích mật. Lúc này, Bí thư chi bộ là đồng chí Nguyễn Văn Tuồng, Trưởng ban quân sự xã là đồng chí Huỳnh Văn Ngày.

Ngày 17/1/1960, tỉnh Bến Tre mở đầu cuộc khởi nghĩa ở miền Nam với phong trào Đồng khởi. Ngày 25/1/1960, tỉnh Long An phát động nhân dân toàn tỉnh khởi nghĩa. Ngay trong đêm đó, một bộ phận của Tiểu đoàn 506 tấn công đồn Đức Lập kéo theo hàng loạt đồn bót khác của địch trong toàn tỉnh bị lực lượng vũ trang và quần chúng nổi dậy đánh chiếm. Trong Đồng khởi đợt 1, được sự hỗ trợ của bộ đội huyện, cán bộ, du kích và nhân dân Bình Thành đã bao vây bót Ngã ba Bình Thành, trấn áp tề xã, tề ấp, tiêu diệt những tên ác ôn ngoan cố, làm tê liệt bộ máy kìm kẹp ở cơ sở của địch.

Ngày 17/ 6/1960, tại Giồng Ông Tưởng, thuộc xã Bình Thành, huyện Đức Huệ, Đơn vị 1 Cơ động tỉnh Long An, tiền thân của Tiểu đoàn 1 anh hùng ra đời. Đây là đơn vị vũ trang mạnh, kết tinh của chất lượng, truyền thống của Tiểu đoàn 506 và 508 trước đây, có đủ khả năng đảm nhiệm những nhiệm vụ quan trọng tỉnh giao, mà trước mắt là đánh đồn bót, làm đòn xeo cho phong trào khởi nghĩa của quần chúng.

Cuối năm 1960, đầu năm 1961, Đơn vị 1 cơ động tỉnh được cấp trên giao nhiệm vụ phối hợp với bộ đội địa phương Đức Huệ đánh đồn bót, hỗ trợ cho nhân dân Bình Thành, Mỹ Thạnh Đông nổi dậy giành chính quyền. Kế  hoạch tác chiến của ta vạch ra là vây ép đồn Bình Thành để đánh tiêu diệt quân tiếp viện của địch kéo xuống từ chi khu Đức Huệ. Thực hiện kế hoạch này, tổ du kích xã Bình Thành đã phục kích bắn bị thương tên thượng sĩ Ngãi, trưởng đồn Bình Thành khi hắn dẫn quân ra ngoài càn quét. Sau đó, khi bọn địch ở trong đồn bung ra, du kích xã phối hợp với Đơn vị 1 Cơ động đã phục kích tiêu diệt 8 tên lính ngụy ở  khu vực Bờ-nô-ghe[8],  thu nhiều súng, trong đó có 1 trung liên, làm cho bọn còn lại hoang mang, lo sợ chạy về cố thủ đồn bót. Ngay trong ngày đó, địch điều đại đội Bảo An do trung úy Muôn - quận trưởng Đức Huệ chỉ huy từ Quéo Ba lên tiếp viện cho bót Bình Thành. Đơn vị 1 Cơ động tỉnh cùng du kích xã Bình Thành tiếp tục phục kích tại giồng Bánh Lái, đánh tiêu diệt 1 trung đội địch, buộc bọn còn lại phải tháo chạy về Quéo Ba. Phát huy thắng lợi này, chi bộ chỉ đạo cho dân quân du kích xã tiếp tục bao vây uy hiếp đồn Ngã ba Bình Thành, đồng thời vận động nhận dân đắp cản ở đầu kinh Bờ-nô-ghe không cho tàu địch vào tiếp tế bọn lính trong đồn. Ta còn rải truyền đơn, thổi kèn, đánh trống, dùng loa phóng thanh kêu gọi địch đầu hàng. Trước sự vây ép liên tục của ta, một tuần sau, bọn địch ở Bình Thành bỏ đồn tháo chạy về Quéo Ba, xã Bình Thành được giải phóng hoàn toàn.

Từ sau Hiệp định Geneve, cán bộ, chiến sĩ và nhân dân Bình Thành đã chịu nhiều khó khăn, thử thách do sự đàn áp, khủng bố ác liệt của kẻ thù. Nhiều cán bộ, đảng viên, cơ sở cách mạng đã bị địch bắt bớ, tra tấn, tù đày nhưng  không một ai khuất phục trước bạo lực của kẻ thù. Chính trong giai đoạn khó khăn này, Bình Thành là nơi hội tụ những cán bộ, cốt cán, trung kiên nhất của Đảng từ khắp các địa phương trong và ngoài tỉnh. Cũng tại Bình Thành, những đơn vị vũ trang đầu tiên của tỉnh Tân An và Chợ Lớn từ sau năm 1954 được hình thành, dưới danh nghĩa là lực lượng vũ trang giáo phái trong khi trung ương chưa cho phép đấu tranh vũ trang. Vì thế, có thể nói rằng Bình Thành chính là cái nôi của lực lượng vũ trang tỉnh Long An và Kiến Tường sau này. Ngay từ  khi thành lập, Tỉnh ủy Long An cũng đã chọn Bình Thành làm căn cứ để lãnh đạo phong trào cách mạng của tỉnh trong thời điểm sự khủng bố, đàn áp của địch lên đến đỉnh cao.

Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, cán bộ, chiến sĩ và nhân dân Bình Thành dần dần vượt qua khó khăn thử thách, gầy dựng, phát triển cơ sở Đảng, xây dựng lực lượng vũ trang. Khi nghị quyết 15 của Đảng ra đời và nhất là trong phong trào Đồng khởi, phong trào cách mạng xã Bình Thành đã có bước chuyển biến quan trọng. Với sức mạnh tổng hợp dựa trên 3 mũi giáp công, lực lượng quân sự, chính trị, binh vận, quân và dân Bình Thành đã phá tan hệ thống đồn bót giặc, trấn áp bọn tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn xã nhà vào đầu năm 1961, chuẩn bị những điều kiện cần thiết về thế và lực để bước sang một giai đoạn cách mạng mới.

2. Xây dựng, bảo vệ căn cứ kháng chiến, chống chương trình Bình định cấp tốc, góp phần đánh bại chiến lược Chiến tranh Đặc biệt của Mỹ-ngụy (1961-1965)

Phong trào Đồng khởi năm 1960 ở miền Nam đã làm cho bộ máy kềm kẹp của ngụy quyền ở cơ sở sụp đổ, dẫn đến sự phá sản của chiến lược “Chiến tranh một phía” mà Mỹ - Diệm đã thi hành từ sau Hiệp định Geneve. Để cứu vãn tình thế, đế quốc Mỹ và tay sai buộc phải chuyển sang một chiến lược chiến tranh mới với tên gọi là “Chiến tranh Đặc biệt” với nội dung cơ bản là: đầu tư toàn bộ chi phí để xây dựng, trang bị, huấn luyện và tăng cường cố vấn Mỹ cho quân ngụy, sử dụng quân ngụy làm công cụ chủ yếu để đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân miền Nam. Cụ thể hóa cho chiến lược này, Mỹ đề ra kế hoạch Staley - Taylor với mục tiêu để bình định miền Nam trong 18 tháng (còn gọi là chương trình Bình định cấp tốc).  Huyện Đức Huệ là khu vực tiếp giáp giữa miền Đông và miền Trung Nam Bộ và là căn cứ kháng chiến lớn ở Long An nên được Mỹ - Diệm coi là một trong những địa bàn trọng điểm của chương trình bình định cấp tốc.

Về phía ta, trên cơ sở quán triệt nghị của cấp trên, Huyện ủy Đức Huệ đã chủ trương phát huy khí thế mạnh mẽ của phong trào Đồng khởi, tiếp tục tiến công địch bằng vũ trang và chính trị, quyết tâm bảo vệ vững chắc và mở rộng vùng căn cứ cách mạng.

Xã Bình Thành từ năm 1961 là vùng giải phóng, là căn cứ cách mạng của Tỉnh ủy, tỉnh đội Long An và nhiều cơ quan ban ngành. Thường trực Tỉnh ủy Long An đã chính thức về đóng tại nhà ông Hai Trạng thuộc giồng Ông Bạn, xã Bình Thành.

Các cơ quan trực thuộc Tỉnh ủy cũng về ở xung quanh thường trực Tỉnh ủy như:

-Văn phòng, điện đài: đóng trong vuông nhà ông Hai Trạng.

-Đội Bảo vệ: đóng ở nhà ông Tư  Cầu.

-Bộ phận văn thư và cơ yếu: đóng ở nhà ông Sáu Hương.

-Đội Hỏa tốc: đóng ở nhà ông Chín Đực.

-Cơ quan Kinh tài: đóng gần đội bảo vệ.

-Cơ quan Dân vận - Mặt trận: đóng ở nhà bà Hai Chơi.

Ở những địa điểm khác thuộc xã Bình Thành cũng có nhiều cơ quan trú đóng như:

-Tỉnh đội: đóng ở nhà ông Tám Hổ, giồng Ông Hổ.

-Ban Tuyên văn giáo: đóng ở Giồng cây Xoài.

-Ban Tổ chức: đóng ở Bàu Voi.

-Cơ quan quân y và Trường tân binh - cơ khí: đóng ở Giồng ông Tưởng.

-Cơ quan Binh vận: đóng ở giồng Bộ Sô.

-Cơ quan Hậu cần: đóng ở giồng Ông Yên.

Về phía lực lượng địa phương, từ khi giải phóng xã, chi bộ và các ban ngành được củng cố và ngày càng phát triển. Bí thư chi bộ lúc này là đồng chí Nguyễn Văn Tuồng, Xã đội trưởng là đồng chí Nguyễn Văn Điểu, Trưởng công an là đồng chí  Võ Văn Sóc. Lực lượng du kích xã phát triển lên đến 1 trung đội gồm 29 đồng chí để đáp ứng yêu cầu chiến đấu bảo vệ xóm làng. Trong giai đoạn này, chi bộ và các đoàn thể tập trung vào công tác vận động quần chúng nâng  cao ý thức phòng gian, bảo mật, bảo vệ căn cứ cách mạng, cảnh giác trước những thủ đoạn của kẻ thù, vận động quần chúng tòng quân chiến đấu, tham gia lực lượng dân công, đóng góp tiền bạc, của cải, lương thực phục vụ kháng chiến. Cán bộ, đảng viên Bình Thành đã không ngại khó khăn gian khổ trong công tác vận động quần chúng. Dù thiếu xuồng ghe, lương thực, nhưng cán bộ, đảng viên Bình Thành vẫn chịu lạnh, chịu đói, lội bộ để đến với dân mà không một lời than vãn. Từ đó quần chúng nhân dân càng tin yêu, mến phục những người cán bộ cách mạng và sẵn sàng hy sinh tài sản, tính mạng của mình để phục vụ sự nghiệp chung. Từ năm 1962, thực hiện ý đồ đánh phá vùng căn cứ cách mạng, tiêu diệt các cơ quan đầu não của tỉnh, địch đã dùng bom tấn, pháo bầy, chất độc hóa học tàn phá dữ dội xã Bình Thành, hòng biến nơi đây  thành vùng đất chết. Bên cạnh đó, chúng tiến hành đốt nhà, gom dân về ấp chiến lược ở Thủ Thừa, thực hiện ý đồ thâm độc là tách dân ra khỏi cách mạng, làm cho cách mạng mất đi chỗ dựa tin cậy và đi đến diệt vong. Ngày 26/2/1962, bọn địch đã sử dụng máy bay bỏ bom ở Giồng Ông Bạn và Giồng Cây Xoài, thiêu rụi hơn 80 nhà dân. Ý đồ của chúng là sẽ đốt cháy toàn bộ nhà cửa của dân Bình Thành để buộc nhân dân vào ấp chiến lược, nhưng vì lúc bấy giờ ở Sài Gòn xảy ra cuộc đảo chánh, có hai phi công là Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử đã bỏ bom làm sạt 1 góc dinh Độc Lập, Ngô Đình Diệm phải ra lệnh rút lực lượng về bảo vệ thủ đô nên bọn địch mới bỏ dỡ cuộc ném bom xã Bình Thành. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, bất chấp mưa bom, bão đạn, bất chấp những thủ đoạn dã man, tàn ác của kẻ thù, nhân Bình Thành đã một lòng theo Đảng, theo cách mạng, kiên quyết “một tấc không đi, một ly không rời”. Phong trào chống cào nhà, gom dân ở Bình Thành diễn ra hết sức quyết liệt trên cả  mặt: quân sự, chính trị. Về quân sự, phong trào chiến tranh du kích ở Bình Thành phát triển mạnh với nhiều hình thức đánh giặc bằng chông, mìn, đạp lôi, trái gài, trái nổ. Cách đánh này đã góp phần tiêu hao sinh lực địch, hạn chế những cuộc càn quét gom dân, lập ấp của chúng và hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân. Về chính trị, chi bộ đã vận động và tổ chức nhiều cuộc đấu tranh của quần chúng chống bom pháo, chống càn quét, chống cào nhà gom dân...Nhân dân Bình Thành đã tham gia hàng chục cuộc đấu tranh ở Kinh Xáng, Quéo Ba, Hậu Nghĩa, Thủ Thừa..., mỗi cuộc có hàng trăm người biểu tình đưa yêu sách. Lồng vào các cuộc đấu tranh này là công tác vận động tranh thủ binh sĩ làm phân hóa hàng ngũ địch. Đi đầu trong phong trào đấu tranh chính trị là chị em phụ nữ Bình Thành, mà nòng cốt là bà Mười Ngọt, bà Tư  Khuyên, bà Năm Nô...Cuộc đấu tranh kết hợp giữa lực lượng chính trị và quân sự của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân Bình Thành chống thủ đoạn gom dân, lập ấp chiến lược đã đạt được thắng lợi. Đa số đồng bào vẫn bám trụ ruộng vườn để tiếp tục tăng gia sản xuất, xây dựng căn cứ, ủng hộ cách mạng, mặc dù phải sống trong hoàn cảnh hết sức cơ cực, nhà cửa ruộng vườn bị bom cày, đạn xới, đói khổ triền miên. Những gia đình đã bị gom vào ấp chiến lược cũng không ngừng đấu tranh đòi trở về vườn cũ làm ăn, buộc địch phải nhượng bộ.

Mùa khô năm 1962, để thuận tiện trong việc vận chuyển lương thực, vũ khí, thuốc men theo đường hành lang từ  Kiến Tường qua Long An và về các huyện nam lộ 4, Tỉnh ủy đã chỉ đạo cho huyện Đức Huệ đào những tuyến kinh kháng chiến. Trên địa bàn xã Bình Thành có kinh 62 từ ranh giới tỉnh Kiến Tường đến ngã ba Bình Thành, kinh từ rạch Cần Xé đi Cá Sơn qua Vàm Cỏ Tây, đồng thời nạo vét những đoạn bị bồi lấp của kinh Ngang, kinh Bo Bo. Phong trào đi dân công đào kinh kháng chiến của nhân dân Bình Thành lúc bấy giờ phát triển mạnh với hàng trăm lượt người tham gia, bất chấp bom pháo ác liệt của kẻ thù. Những con kinh kháng chiến hoàn thành đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao thông liên lạc, vận chuyển thương binh, vũ khí, thuốc men, lương thực trên con đường hành lang chiến lược nối liền miền Tây với  miền Đông Nam Bộ.

Từ khi tuyến kinh kháng chiến hoàn thành, xã Bình Thành, mà trọng tâm là khu vực Ngã ba Bình Thành trở thành nơi có vị trí hết sức quan trọng trên con đường hành lang chiến lược nói trên. Vì thế, địch đã tăng cường lực lượng và bom pháo đánh phá ác liệt không kể ngày đêm vào xã Bình Thành.Về phía cách mạng, Tỉnh ủy quyết tâm bằng mọi giá phải bảo đảm sự thông suốt của con đường chiến lược này. Nằm trong nhiệm vụ chung ấy, xã Bình Thành  phối hợp cùng với bộ đôi tỉnh và huyện canh giữ đường hành lang từ  Ma Ren xuống ngã ba Bình Thành để thông qua sông Vàm Cỏ Tây. Lực lượng làm công tác bảo vệ hành lang phải đối mặt với sự đánh phá hết sức ác liệt của kẻ thù nên chịu rất nhiều tổn thất hy sinh. Một đại đội độc lập thuộc tỉnh đội Long An, 1 trung đội thuộc huyện đội Đức Huệ phối hợp với liên quân du kích các xã xuống Bình Thành chỉ một thời gian đã bị hy sinh rất nhiều và được rút về. Cuối cùng chỉ còn dân quân du kích xã Bình Thành làm nhiệm vụ canh giữ  hành lang nhờ nhờ thông thuộc địa hình và huy động được sức mạnh tổng hợp của nhiều lực lượng và có cách đánh thích hợp.

Du khó khăn gian khổ, thiếu thốn mọi thứ, từ lương thực, xuồng ghe, ni-lông che mưa, giấy viết, súng đạn, thuốc men...du kích Bình Thành vẫn bám trụ địa bàn với tinh thần tự lực tự cường, dựa vào sức mình là chính. Được sự giúp đỡ của nhân dân,  du kích Bình Thành đã tận dụng bom pháo lép để chế tạo trái gài, trái nổ, bố trí xen lẫn với hầm chông tạo thành cạm bẫy và vành đai diệt giặc dọc theo địa hình để tiêu diệt giặc. Đi đến đâu cũng bị bắn tỉa, bị vướng phải chông, mìn, trái gài của du kích nên địch bị tiêu hao lực lượng, sinh ra tâm lý hoang mang lo sợ và không dám trụ lại Bình Thành xây đồn bót. Nhờ đó, căn cứ của Tỉnh ủy đóng ở Bình Thành được bảo vệ an toàn. Khi Tỉnh ủy dời về Đức Hòa, các cơ quan như: Nhà In, Giao bưu, Hậu cần, các trường huấn luyện đặc công, công binh, tân quân vẫn ở lại Bình Thành cho đến năm 1966. Ngoài nhiệm vụ bảo vệ căn cứ, bảo vệ hành lang, chi bộ, xã đội Bình Thành còn nắm chặt tình hình địch, báo cáo kịp thời về huyện mỗi ngày. Nhờ khéo tuyên truyền vận động, cán bộ, đảng viên, du kích Bình Thành đã được nhân dân và các cơ quan cấp trên giúp đỡ để vượt qua khó khăn thiếu thốn và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Chuyện cơm áo gạo tiền ban đầu phải vận động từ nhiều nguồn, về sau, Tỉnh ủy chỉ đạo Giao bưu  Long An  cấp sinh hoạt phí cho tiểu đội du kích, Hậu cần tỉnh cho mượn hỏa lực mạnh để du kích sử dụng khi cần thiết. Sau này, Hậu cần tỉnh giao luôn cho du kích xã 10 súng (1 tự động, 1AK, 8 CKC). Nhờ được trang bị vũ khí, du kích Bình Thành hoạt động rất hiệu quả và là một trong những đội du kích mạnh nhất huyện Đức Huệ lúc bấy giờ.

Tháng 2/1964, địch dùng máy bay trực thăng đổ bộ vào giồng Cây Xoài, xã Bình Thành để tiếp tục ép buộc nhân dân về sống ở vùng chúng kiểm soát. Ban đầu, địch dùng cách mềm mỏng, tuyên truyền dụ dỗ rằng về vùng chúng kiểm soát sẽ được chính phủ quốc gia giúp đỡ về an ninh, nhà cửa, phương tiện làm ăn, còn ở lại vùng “Việt cộng” kiểm soát thì sẽ không được an toàn về tính mạng và tài sản. Tuy nhiên, không một gia đình nào nghe lời đường mật của bọn chúng. Cuối cùng, địch dùng vũ lực ép dân lên trực thăng chở về Thủ Thừa. Tại đây, hàng trăm đồng bào Bình Thành đã đấu tranh quyết liệt với địch suốt 3 ngày liền, buộc chúng phải trả mọi người trở về trả chỗ cũ.

Từ giữa năm 1964, đồng chí Lữ  Văn Quởn (Mười Quởn) làm bí thư xã Bình Thành thay đồng chí Nguyễn Văn Tuồng. Xã đội trưởng lúc này là đồng chí Tư Hát, Trưởng công an vẫn là đồng chí Võ Văn Sóc.

Năm 1965, địch lại mở 1 cuộc càn quét lớn vào Bình Thành để thực hiện kế hoạch cào nhà gom dân. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, đồng bào Bình Thành đã đấu tranh quyết liệt với kẻ thù, quyết không chịu về sống ở vùng địch kiểm soát. Chúng giật sập nhà, phá nhiều hầm trú ẩn nhưng vẫn không khuất phục nổi tinh thần bám đất giữ làng của đồng bào. Thất bại trong việc dồn dân, lập ấp, từ  giữa năm 1965, địch bắt đầu mở nhiều cuộc càn quét lớn nhỏ vào xã Bình Thành, đồng thời sử dụng máy bay ném bom và tập trung hỏa lực bắn phá ác liệt vùng căn cứ dọc theo đường hành lang. Bom đạn của Mỹ - ngụy đã làm cho nhà cửa, ruộng vườn của nhân dân Bình Thành bị tàn phá nặng nề. Làng mạc điêu tàn, đồng ruộng bỏ hoang, chi chít hố bom, cảnh đau thương, tang tóc thường xuyên xảy ra. Tuy nhiên, cán bộ, đảng viên, du kich  và nhân dân Bình Thành vẫn kiên trì bám trụ, sử dụng trái gài, trái nổ, hầm chông để xây dựng thế trận chống lại các cuộc càn quét của địch, quyết tâm bảo vệ tuyến hành lang, không cho địch trụ lại xây dựng đồn bót.

Cho đến cuối năm 1965, mặc dù gặp phải muôn vàn khó khăn, gian khổ nhưng cán bộ, chiến sĩ và nhân dân Bình Thành đã đoàn kết một lòng dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, kiên cường bám đất giữ làng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ căn cứ, bảo vệ hành lang chiến lược nối liền miền Đông với miền Tây của cách mạng. Với thành tích ấy, nhân dân Bình Thành đã góp phần cùng nhân dân cả nước đánh bại chiến lược “Chiến tranh Đặc biệt” của Mỹ - ngụy.

3. Góp phần đánh bại hai cuộc phản công chiến lược của Mỹ-ngụy và tham gia vào cuộc Tổng công kích, tổng khởi nghĩa Mậu thân-1968 (1966-1968)

Từ giữa năm 1965, đế quốc Mỹ bắt đầu thực hiện chiến lược Chiến tranh Cục bộ với nội dung triển khai lực lượng quân Mỹ và chư hầu để tiêu diệt chủ lực của quân giải phóng, giành thắng lợi trên chiến trường miền Nam, kết hợp đẩy mạnh chiến tranh bằng không quân ra miền Bắc, buộc ta phải thương lượng theo điều kiện của Mỹ. Với ý đồ ấy, Mỹ đã bắt đầu đưa quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam kể từ ngày 17/7/1965. Ở Long An, quân Mỹ đã có mặt từ đầu năm 1966.

Về phía ta, vào tháng 12/1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp và khẳng định quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ. Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Trung ương, Tỉnh ủy Long An và Huyện ủy Đức Huệ, chi bộ Bình Thành đã tập trung vào công tác giải quyết tư tưởng ngán ngại đánh Mỹ, đồng thời củng cố lực lượng, hình thành thế trận chiến tranh nhân dân, sẵn sàng cho cuộc chiến đấu mới. Lúc bấy giờ, chi bộ Bình Thành có từ 5 - 7 đảng viên, đội du kích tập trung có 7 đồng chí, các ấp có tổ du kích phân tán. Về đoàn thể có đủ các tổ chức Thanh niên, Phụ nữ, Nông dân. Theo chỉ đạo của trên, du kích xã hoạt động theo hình thức vừa tập trung, vừa phân tán. Khi tập trung, du kích xã phối hợp với bộ đội huyện, tỉnh đánh càn, tập kích tiêu diệt địch. Khi phân tán, du kích hoạt động tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch bằng cách sử dụng vũ khí tự tạo, vũ khí thô sơ kết hợp với việc xây dựng trận địa.

Mùa khô năm 1966, Mỹ đổ quân ào ạt vào địa bàn Đức Huệ, đánh mạnh vào con đường hành lang, khu vực căn cứ, các cơ quan, kho tàng. Đồng thời, chúng sử dụng phi pháo, trực thăng, tàu chiến trên sông, kết hợp với lực lượng biệt kích quyết tâm tát trắng vùng giải phóng. Tại Bình Thành, du kích xã phối hợp với bộ đội tỉnh đã tổ chức nhiều trận tập kích lực lượng biệt kích địch. Đáng kể nhất là trận tập kích làm thiệt hại nặng 1 đại đội biệt kích Trâu điên tại giồng Ông Út và trận diệt 8 tên biệt kích tại giồng Cù Lao mùa khô năm 1966.

Năm 1966 là năm  lũ lên rất cao, nước dâng trắng xóa khắp xã Bình Thành, chỉ còn lại một số gò cao. Nhân cơ hội này, địch dùng máy bay, phi pháo bắn phá ác liệt hòng biến Bình Thành trở thành vùng trắng. Trước tình cảnh ấy, Mặt trận đã tổ chức cứu lụt, đưa dân lên Ba Thu cất chòi sống tạm cho qua cơn hoạn nạn. Ở xã chỉ còn lực lượng du kích bám trụ để bảo vệ hành lang. Trong cảnh lụt lội, thiếu thốn lương thực, những đồng chí bám trụ phải nhổ bàng, bắt cá bán cho dân Campuchia và sử dụng củ mì, củ môn, rau hẹ, bông súng ăn độn để sống qua ngày. Tuy gian khổ, nhưng du kích Bình Thành không một ai nản lòng thối chí mà vẫn kiên cường đánh giặc, lập nên những chiến công xuất sắc. Đầu năm 1967, địch mở cuộc càn quét vào xã  Bình Thành với quy mô cấp đại đội. Trung đội du kích xã phối hợp với bộ đội địa phương huyện Đức Huệ đã đánh bại cuộc càn của giặc, tiêu diệt 24 tên biệt kích Mỹ, thu 21 súng và đạn các loại.  Giữa năm 1967, biệt kích Mỹ từ đồn Kinh Xáng đột nhập vào Giồng Ông Bạn. Những người dân đặt lọp ở đây trông thấy liền chạy về Ba Thu báo cáo tình hình. Tỉnh đội đã chỉ đạo bộ đội tỉnh phối hợp du kích Bình Thành tập kích bọn địch ở Giồng Ông Bạn, diệt 2 máy bay (1 bù nóc và 1 trực thăng) cùng một số lính, buộc bọn còn lại phải tháo chạy.

Lúc bấy giờ, một trong những chiến thuật khá nguy hiểm của giặc là bất ngờ dùng trực thăng đổ quân nhảy dò, thọc sâu vào vùng căn cứ để đánh phá cơ quan đầu não của ta. Tuy nhiên, du kích Bình Thành đã nhanh chóng hạn chế và đánh bại chiến thuật này của chúng. Trong năm 1967, du kích Bình Thành đã  đánh bại 2 cuộc càn bằng chiến thuật nhảy dò của giặc. Trận đầu, được đài kỹ thuật báo tin là địch sẽ nhảy dò vào khu vực Ngã ba Bình Thành, du kích xã đã gài mìn và lựu đạn đón sẵn. Khi địch nhảy vào, mìn và lựu đạn gài của ta đã làm chết và bị thương 116 tên địch, phá hỏng 1 máy bay trực thăng. Vào tháng 11/1967, địch tiếp tục dùng máy bay trực thăng đổ quân vào Giồng Cù Lao. Trung đội du kích xã đang làm nhiệm vu bảo vệ hành lang đã anh dũng chiến đấu với địch, tiêu diệt 21 tên biệt kích ngụy, thu 17 súng, trên 3000 viên đạn và nhiều đồ dùng quân sự khác.

Du kích Bình Thành còn phối hợp với bộ đội địa phương Vùng 6 (Tuyên Nhơn) bao vây chiếc xáng thổi của địch từ sông Vàm Cỏ Tây vào kinh Gãy, xã Bình Thành. Lực lượng ta bị 1 chiếc máy bay chuồn chuồn của địch phát hiện nên chúng huy động 40 chiếc trực thăng đổ quân nhảy dò xuống đội hình của ta ở khu vực giáp ranh giữa xã Bình Thành và xã Thuận Nghĩa Hòa. Ban đầu lực lượng ta bị thiệt hại nặng vì bị địch dùng hỏa tiễn bắn dữ dội. Sau đó, quân ta dùng lổ hỏa tiễn làm công sự, chiến đấu quyết liệt với địch từ  9 giờ sáng đến 3 giờ chiều. Địch phải huy động dân vệ, địa phương quân ởthị xã Tân An đi tiếp viện bằng trực thăng. Bọn này nghe tin đồng bon ở trận địa chết chóc rất nhiều, hơn nữa trận đánh xảy ra ở nơi cỏ cây rậm rạp, đất đai lầy lội nên ngán ngại, hoang mang, sợ hãi. Vì thế,  vợ con, gia đình những binh sĩ ngụy này đã đấu tranh không cho chồng con mình đi tiếp viện. Cùng lúc ấy, một cơn mưa lớn đổ xuống và trời cũng sắp tối nên bọn địch không cho quân tiếp viện mà ra lệnh cho pháo ở Tuyên Nhơn bắn mạnh vào trận địa rồi rút quân, bỏ lại hơn 70 xác chết. Trận này, ta hy sinh 17 chiến sĩ thuộc đại đội địa phương Vùng 6, còn du kích Bình Thành vẫn an toàn. Hai tháng sau, chiếc xáng thổi của địch cũng rút chạy khỏi Bình Thành. Nhân dân ấp 2, ấp 3 và du kích xã thu được 27 mìn phóng, một số đạn, lưu đạn của bọn địch trên chiếc xáng trong lúc hốt hoảng rút chạy đã làm rơi vãi.

Với những chiến công trên, lực lượng cách mạng xã Bình Thành đã đánh bại âm mưu đánh phá khu căn cứ của địch, bảo vệ an toàn cho tuyến hành lang chiến lược từ  Ba Thu qua Kiến Tường về miền Tây Nam Bộ. Vùng căn cứ cách mạng ở xã Bình Thành nhờ đó được mở rộng và củng cố thêm nên các cơ quan về đóng ngày càng nhiều. Trường Binh vận của tỉnh mở ở khu vực Giồng Bộ Sô và được cán bộ xã cùng nhân dân hỗ trợ tích cực trong việc xây cất trường sở. Liên tục trong 2 năm, nhiều lớp học về công tác binh vận cho cán bộ toàn tỉnh đã được tổ chức tại Giồng Bộ Sô mà vẫn đảm bảo an toàn. Trường huấn luyện đặc công thủy, đặc công bộ của tỉnh cũng mở lớp huấn luyện tại Giồng Bộ Sô. Lúc bấy giờ trong khu vực này còn rất ít dân nhưng bộ đội ta cũng không cần cất trường sở mà ở trong nhà dân, được nhân dân chăm lo, nuôi dưỡng tận tình.

Tháng 10/1967, Bộ chính trị Trung ương Đảng quyết định mở đợt “Tổng công kích, tổng khởi nghĩa” vào dịp tết Mậu thân -1968 nhằm tiêu diệt và tan rã đại bộ phận quân ngụy, đánh đổ ngụy quyền các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, tiêu diệt một bộ phận sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, buộc chúng phải chịu thua ở Việt Nam, chấm dứt hành động chiến tranh đối với miền Bắc. Để chuẩn bị cho “Tổng công kích, tổng khởi nghĩa”, tỉnh Long An được tổ chức lại thành 2 phân khu, trong đó, xã Bình Thành thuộc địa bàn Phân khu 2. Nhiệm vụ của xã Bình Thành là  góp phần bảo đảm sự thông suốt của hành lang chiến lược từ Ba Thu qua Kiến Tường về Cai Lậy và tham gia vận tại vũ khí, đạn dược về chiến trường. Đầu năm 1968, công tác chuẩn bị cho“Tổng công kích, tổng khởi nghĩa” ở Bình Thành đã được tiến hành hết sức khẩn trương. Lúc bấy giờ, Bí thư xã là đồng chí Nguyễn Văn Dũng, Xã đội trưởng là đồng chí Huỳnh Văn Giọng, Trưởng công an là đồng chí Võ Văn Sóc.  Chi bộ xã cùng các đoàn thể đã vận động nhân dân hăng hái tham gia lực lượng dân công vận tải vũ khí, lương thực. Thanh niên nô nức tòng quân để bổ sung cho lực lượng vũ trang của xã, huyện và đưa về trên. Đường hành lang băng qua xã Bình Thành lúc này là con đường huyết mạch để vận chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực, tải thương, đưa ruớc bộ đội suốt đêm ngày. Lực lượng bộ đội qua đây có lúc lên đến cấp trung đoàn. Vì thế, địch đã tập trung lực lượng đánh phá và ngăn chặn đường hành lang suốt đêm ngày. Bọn biệt kích ở Quéo Ba, Hiệp Hòa, Hậu Nghĩa thường xuyên càn quét, phục kích, tập kích dọc con đường hành lang. Bên cạnh đó, chúng còn ném bom, bắn pháo dữ dội, thậm chí dùng máy bay B52 rải thảm hòng tiêu diệt lực lượng ta. Địa bàn Bình Thành bị bom cày, đạn xới dữ dội, hố bom chồng lên hố bom, hầu như không còn mảnh đất nào nguyên lành. Ta và địch tranh chấp nhau quyết liệt, chúng rình rập, theo dõi để tiêu diệt ta, ta bám sát để vô hiệu hóa chúng. Trung đội du kích Bình Thành lúc bấy giờ có 40 đồng chí, được chia là 8 tổ luân phiên túc trực làm công tác bảo vệ hành lang. Trung đội cảm tử này đã nhiều lần lột xác nhưng vẫn hoàn thành nhiệm vụ cực kỳ gian khổ nhưng hết sức vinh quang này.

Trong đợt 1 của Tổng công kích, tổng khởi nghĩa tết Mậu thân, có 51 du kích xã, ấp và thanh niên Bình Thành được rút lên để xây dựng đại đội 2 địa phương quân Đức Huệ. Ngày 21/2/1968, đại đội 2 địa phương quân Đức Huệ mà đa số là du kích Bình Thành đã tấn công thị trấn Hiệp Hòa, bắt giữ 25 tên công an, cảnh sát, dân vệ, thu toàn bộ vũ khí, làm chủ thị trấn 3 ngày. Ngày 23/2/1968, tỉnh điều đại đội 2 địa phương quân Đức Huệ tấn công bọn lính bảo an đóng trong đám mía ở Hiệp Hòa. Quân ta bắt sống 27 tên, thu toàn bộ vũ khí, trong đó có 1 máy PRC 25 của Mỹ. Chiều 23/2, lực lượng ta bắn rơi 1 máy bay trực thăng của giặc. Bọn địch bèn dùng phi pháo bắn cấp tập và cho máy bay B52 đến bỏ bom, làm thương vong một số đồng chí. Vì thế, tỉnh ra lệnh cho đại đội 2 địa phương quân Đức Huệ rút khỏi Hiệp Hòa.

Khi du kích Bình Thành được rút lên huyện để thành lập đại đội 2 địa phương quân, nhiệm vụ bảo vệ hành lang được giao lại cho bộ đội huyện. Trong khi làm nhiệm vụ, bộ đội huyện đụng tao ngộ với địch, có 2 chiến sĩ hy sinh, không lấy được xác. Từ ngày 26/2/1968, du kích xã được tổ chức lại để tiếp tục bảo vệ hành lang và lấy xác 2 tử sĩ nhưng không được vì địch kích lại canh giữ cẩn mật. Ngày 28/2/1968, đồng chí Nguyễn Văn Dũng - Bí thư chi bộ Bình Thành trực tiếp chỉ huy lực lượng đi lấy xác. Địch gài trái ở hiện trường rồi cho máy bay lên oanh kích ở Giồng Cù Lao. Ngày 29/2/1968, đồng chí Nguyễn Văn Dũng hy sinh vì vấp phải trái gài của địch. Trước tình thế ấy, huyện đội Đức Huệ điều gấp đội du kích Mỹ Thạnh Tây xuống Bình Thành làm nhiệm vụ bảo vệ hành lang. Thường vụ Huyện ủy cũng đến Trạm B11 thăm và động viên đồng chí  Lữ Văn Xê (đang nằm bệnh viện) về gấp để góp phần củng cố lực lượng xã. Đồng thời, Huyện ủy cũng chỉ định đồng chí Trần Văn Truyền làm Bí thư chi bộ Bình Thành.

Du kích xã Mỹ Thạnh Tây làm nhiệm vụ bảo vệ hành lang cũng hy sinh, đến 3 ngày sau vẫn không lấy được xác. Đến đêm thứ tư, đồng chí Lữ Văn Xê về xây dựng kế hoạch, chia làm 2 mũi vào mới lấy được xác của du kích Nguyễn Văn Út. Sau đó, Huyện ủy cử đồng chí Tư Thơi - Phó bí thư huyện ủy xuống củng cố lại chi bộ Bình Thành, chỉ định đồng chí Lữ Văn Xê làm Bí thư chi bộ, tiến hành xây dựng lại lực lượng du kích từ xã đến ấp để tiếp tục làm nhiệm vụ bảo vệ hành lang, vì đây là con đường chiến lược quan trọng của cách mạng.

Ngày 25/4/1968, đội du kích Bình Thành được xây dựng lại gồm 11 đồng chí. Chi bộ xã cũng được củng cố và lập căn cứ dọc theo địa hình. Lúc bấy giờ, xã Bình Thành đồng khô cỏ cháy rất trống trải, dân không dám về ở mà phải tạm sống ở nước bạn, cách biên giới 9-10km. Không có dân, thiếu thốn mọi thứ từ lương thực, vũ khí, thuốc men, quần áo, ni lon che mưa...nên lực lượng cách mạng xã Bình Thành đành phải phân tán nhỏ mới bảo đảm an toàn. Tình thế lúc này vô cùng khó khăn, phức tạp, lực lượng du kích mới thành lập, còn thiếu kinh nghiệm, kỹ chiến thuật chưa được luyện tập nên khó có thể chiến đấu hiệu quả. Vì thế, huyện đội Đức Huệ phải tăng cường xuống xã, phối hợp cùng Giao bưu tỉnh và chi bộ bàn kế hoạch hợp đồng tác chiến bảo vệ hành lang. Để giải quyết khó khăn trước mắt về lương thực, vũ khí, trang bị, tỉnh đã cấp cho xã 20 suất tiền ăn hàng ngày, các đơn vị: Tiểu đoàn 16, Tiểu đoàn Phú Lợi, Tiểu đoàn 267B, Đoàn 100 thì ủng hộ súng, đạn, ni lon che mưa...Từ đó, cán bộ, đảng viên, du kích Bình Thành có điều kiện để an tâm bám trụ chiến đấu và xây dựng lực lượng. Dần dần, xã đã củng cố lại ấp đội ở ấp 2 và ấp 3, xây dựng, huấn luyện lực lượng bảo vệ hành lang tương đối vững chắc. Bên cạnh đó, chi bộ tìm cách vận động, kêu gọi nhân dân về xã đốn củi, nhổ bàng, cắt đưng, soi cá...đem lên biên giới Campuchia bán để lo cho kinh tế gia đình. Nhân dân thấy du kích có vũ khí tốt, chỗ ăn ở tạm ổn nên tình nguyện tham gia vào lực lượng. Chi bộ và các đoàn thể cũng phát triển thêm nhiều đảng viên, đoàn viên, hội viên...Do tình hình xã ngày càng được củng cố và ổn định nên nhân dân trở về  làm nghề bắt cá, trồng tỉa rau màu, nhổ bàng, đan đệm... ngày càng nhiều, trong đó có cả đồng bào ở những địa phương khác.

Tháng 7/1968, cấp trên ra lệnh giải thể vùng I, II, III, giao trách nhiệm cho lãnh đạo 4 xã biên giới là: Bình Thành, Mỹ Quý Đông, Mỹ Quý Tây, Mỹ Thạnh Tây hướng dẫn, tạo điều kiện cho dân trở về quê cũ làm ăn và bám trụ để hỗ trợ cho phong trào cách mạng của địa phương. Lúc bấy giờ, so với 3 xã còn lại, Bình Thành là xã có nhiều sản vật thiên nhiên như: cá, lươn, bàng, đưng, bông súng, hẹ nước..., lại trồng được củ mì, củ môn, rau cải phục vụ cho cuộc sống nên nhân dân về nhiều hơn. Bên cạnh đó, chi bộ đã chỉ đạo cho du kích xã, ấp thường xuyên canh gác, nắm tình hình địch, nếu địch ở phía nào thì du kích phía đó bắn súng báo động cho dân biết để tránh. Nhờ quan tâm theo sát và lãnh đạo toàn diện nên chi bộ Bình Thành đã tạo điều kiện cho dân bám trụ lâu dài ở xã ngày một đông.

Lúc này, trên địa bàn xã Bình Thành có 67 đảng viên từ vùng II chuyển về, được sắp xếp thành 4 chi bộ nhỏ. Đến ngày 25/11/1968, Phân khu ủy Phân khu II quyết định thành lập Đảng bộ xã Bình Thành và phân công đồng chí Lữ Văn Xê làm Bí thư Đảng ủy. Các chi bộ bám sát dân để làm công tác vận động tài chính, thu các loại thuế, huy động xuồng ghe, xe bò, xe trâu và dân công hỏa tuyến phục vụ lực lượng vũ trang chiến đấu. Xuồng ghe, xe cộ của nhân dân Bình Thành thường xuyên tham gia vận chuyển lương thực, vũ khí, đạn dược cho cách mạng từ Tân Mao, Gò Gạch, Sâm Rôn, Rừng Nhum, Ba Thu ...về các chiến trường. Dân công hỏa tuyến Bình Thành, chủ yếu là nam nữ thanh niên còn độc thân đã phục vụ cho hậu cần Đoàn 100, tỉnh, huyện liên tục 1-2 tháng mới về nhà lao động sản xuất. Những nông dân, phụ nữ lớn tuổi nhưng còn khỏe mạnh thì cũng hăng hái tham gia những đợt ngắn ngày (1-2 đêm), để dành thời gian lao động sản xuất để có tiền bạc, lương thực đóng góp nuôi quân.

Để phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân, Đảng ủy Bình Thành chủ trương vận động nhân dân tích cực tăng gia sản xuất, khai vỡ đất bưng, mượn thêm ruộng của Việt kiều và nhân dân Campuchia để trồng lúa, trồng khoai, trồng rau màu...Bên cạnh đó, nhân dân còn bắt cá ở đìa lỗ bom, đặt lọp, đặt trúm, nhổ bàng, đưng để có thêm thu nhập. Nhờ đó, cuộc sống của nhân dân tương đối no đủ, có điều kiện đóng góp sức người, sức của cho cách mạng.

Cho đến cuối năm 1968, tình hình xã Bình Thành tương đối ổn định, tổ chức đảng, các đoàn thể và du kích phát triển khá mạnh, đủ sức bảo vệ dân, giữ vững vùng căn cứ  và bảo vệ an toàn đường hành lang chiến lược của cách mạng ngang qua địa bàn xã.

4. Đánh bại cuộc phản kích của địch, giữ vững hành lang chiến lược dọc biên giới (1969-1972)

Sau đợt 3 Tổng công kích, tổng khởi nghĩa của ta, địch bắt đầu ổn định tình hình và tổ chức phản công. Tháng 11/1967, Mỹ - Thiệu phát động chương trình Bình định cấp tốc nhằm mục đích “Nhanh chóng chiếm lại các làng mạc, thôn ấp đã mất trong đợt tết Mậu thân”. Tại Đức Huệ, từ cuối năm 1968, sư đoàn 25 Mỹ liên tục mở những cuộc hành quân bình định. Dọc theo biên giới từ Ba Thu xuống Bình Thành, địch phản kích quyết liệt và dùng máy bay ném bom nổ chậm, bom từ trường nhằm ngăn chặn tối đa mọi hoạt động  trên tuyến hành lang từ  biên giới xuống Nam Long An. Ban đêm, chúng dùng pháo bắn và dùng trực thăng soi đèn để đánh phá hành lang, đồng thời bung lực lượng phục kích ngày đêm trên các trục đường qua lại của các lực lượng ta.

Nhiệm vụ huyện giao cho Bình Thành lúc bấy giờ là phối hợp cùng bộ đội và các lực lượng của trên kiên quyết giữ vững hành lang, đánh bại âm mưu phản kích của Mỹ - ngụy. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quan trọng này, trước tiên phải củng cố, sắp xếp lại các chi bộ trực thuộc đảng bộ xã cho phù hợp với địa bàn và điều kiện hoạt động của đảng viên. Đầu tháng 2/1969, đồng chí Đỗ Quang Mỵ - Bí thư Huyện ủy cùng 3 Huyện ủy viên là Nguyễn Văn Khê, Nguyễn Văn Cậy, Đặng Văn Sáng, Phạm Văn Tỉnh lên Bình Thành chỉ đạo thực hiện công tác này. Đoàn cán bộ Huyện ủy đã bàn bạc, thảo luận với địa phương và thống nhất tổ chức đảng bộ Bình Thành làm 4 chi bộ gồm:

-Chi bộ 1: đồng chí Lữ Văn Sốt làm Bí thư, đồng chí Võ Văn Lập làm Phó Bí thư.

-Chi bộ 2: đồng chí Nguyễn Phú Ngãi làm Bí thư, đồng chí Lê Văn Tư làm Phó Bí thư.

-Chi bộ 3: đồng chí Mai Thành Long làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Chất làm Phó Bí thư.

-Chi bộ 4 (chi bộ lực lượng võ trang): đồng chí Huỳnh Văn Vững làm Bí thư. Vì chi bộ này chỉ có 4 đảng viên nên không có phó bí thư.

Sau khi thống nhất xong, các đồng chí nói trên triệu tập Đại hội đảng viên và công bố quyết định thành lập các chi bộ.

Đảng ủy xã lúc bấy giờ gồm có:

- Đồng chí Lữ Văn Xê: Bí thư.

-Đồng chí Huỳnh Văn Dững: Phó Bí thư.

-Đồng chí Lê Văn Trọng: Đảng ủy viên.

-Đồng chí Trịnh Quang Vui: Đảng ủy viên.

-Đồng chí Võ Văn Sóc: Đảng ủy viên.

Sau được củng cố, sắp xếp về tổ chức và phân chia địa bàn hoạt động, đảng bộ Bình Thành tập trung vào công tác bảo vệ hành lang, bảo vệ nhân dân, chống địch phản kích.

Du kích xã Bình Thành ngày đêm luyện tập, phụ trách việc dẫn đường và hợp đồng tác chiến chặt chẽ với đại đội săn bắn trực thăng. Máy bay của địch thường soi đèn từ ngã ba Bình Thành lên Ma Ren thường bị ta bắn rơi. Vì thế, địch chuyển sang dùng máy bay cá rô nhưng cũng bị bắn hạ. Thất bại trong chiến thuật dùng máy bay soi đèn đánh phá, địch chuyển sang sử dụng thuyền bay, lợi dụng mùa nước lũ thọc sâu vào xã bắn giết cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ta. Loại thuyền bay này có nhiều tính năng, rất cơ động, chỉ cần 3 - 4 tấc nước là có thể chạy được. Trong bưng trấp, thuyền bay cũng chạy rất nhanh. Bở ngỡ trước loại phương tiện cơ giới hiện đại và mới lạ của địch, ta chưa kịp có đối sách thích hợp. Vì thế, chiến thuật thuyền bay của địch đã gây cho ta nhiều khó khăn và thiệt hại.  Ngày 10/11/1969, địch sử dụng  20 chiếc thuyền bay tiến vào Bình Thành, bắn chết hơn 20 người dân đang bắt cá, nhổ bàng từ kinh Trà Cú đến Giồng Cát thuộc ấp 3, xã Bình Thành. Cho đến ngày 23/11/1969, địch đã 9 lần dùng thuyền bay đánh vào Bình Thành, gây cho ta nhiều tổn thất. Về phía nhân dân, đa số đều lo ngại vì thuyền địch đến nhanh và bất ngờ, giữa đồng nước mênh mông không chỗ tránh né, nếu ta không đánh được chiến thuật thuyền bay thì nhân dân khó có thể bám trụ địa bàn để làm ăn sinh sống.

Để bảo vệ an toàn tuyến hành lang và giúp nhân dân yên tâm lao động sản xuất, đảng ủy Bình Thành quyết tâm tiêu diệt thuyền bay của địch, đồng thời giao nhiệm vụ cho chi bộ lực lượng vũ trang và xã đội tổ chức thực hiện. Ban đầu, có một số ý kiến ngại đánh và nêu ra những khó khăn như: lực lượng ít, thiếu vũ khí, đồng trống, nước ngập không có địa hình che chở, thiếu nguồn tiếp tế lương thực và cứu thương. Chi bộ lực lượng vũ trang và xã đội đã phân tích tình hình, quyết tâm khắc phục mọi khó khăn để tiêu diệt thuyền bay của địch, cho dù phải mất mát, hy sinh. Qua nghiên cứu thực tế, xã đội nêu ra hai phương án chiến đấu là: đánh trực tiếp và đánh bằng trái gài. Sau khi phân tích ưu, khuyết điểm của cả hai phương án, cuối cùng, phương án phục kích đánh trực tiếp được lựa chọn. Năm đồng chí trực tiếp tham gia trận đành là: Lữ Văn Xê - Bí thư Đảng ủy xã, Huỳnh Văn Dững - Trưởng công an xã, Trần Văn Chuối - Xã đội trưởng, Huỳnh Văn Giao -Bí thư xã đoàn, Nguyễn Văn Cạn -Ấp đội trưởng ấp 3. Đồng chí Huỳnh Văn Giao được phân công phụ trách công tác cứu thương nhưng trong tay chỉ có 2 ống thuốc cầm máu, 3 băng gạc và một ít bông gòn. Về vũ khí, xã đội mượn được 5 súng AK và một số trái gài. Lương thực chuẩn bị cho trận đánh là cơm vắt và bánh tét nhưn chuối để bảo quản được lâu. Để gọn nhẹ và nghi trang dễ dàng, năm đồng chí tham gia trận đánh đi tắt đến khu vực phục kích bằng 2 chiếc xuồng. Sau 3 ngày phục kích, lực lượng ta dùng hết lương thực dự trữ  mà xuồng bay của địch vẫn không đến. Vì thế, năm đồng chí nói trên bàn bạc thống nhất dùng trái gài để đánh thuyền bay. Địa điểm gài là cản đất ở đầu kinh Bờ-nô-ghe.Ta gài 8 trái cối 80 ngang hông cản, còn  cối 60 được gài cặp 2 bên kinh theo kiểu xây rọ bắt cá. Bố trí trái gài xong, lực lượng ta rút về căn cứ và phân công nhau trèo lên bụi tre, dùng ống nhòm lấy được của Mỹ - ngụy để theo dõi thuyền bay.

Khoảng 7 giờ sáng ngày 24/11/1969, địch điều 1 máy bay L19 từ Hậu Nghĩa bay dọc kinh Trà Cú để quan sát tình hình nhưng không phát hiện được gì. Đến 9 giờ, 9 chiếc thuyền bay của địch rồ máy dữ dội chạy vào xã Bình Thành theo đường kinh Trà Cú. Nghe anh em phụ trách công tác quan sát báo cáo, chi bộ và xã đội hết sức vui mừng nhưng vẫn lo vì sợ trái lép. Khi đoàn thuyền của địch vào đến cản, anh em ở căn cứ nghe nhiều tiếng nổ rền vang và 7 - 8 lằn khói đen bốc lên cao. Ai nấy đều phấn khởi vì biết rằng thuyền bay của địch đã trúng phải trái nổ. Đến 16 giờ chiều, đài kỹ thuật báo tin rẳng chiếc thuyền bay của địch tan xác, 2 chiếc bị phá hỏng, địch chết 17 tên, trong đó có 2 lính Mỹ.

Sáng 25/11/1969, đồng chí Lữ Văn Xê lên huyện đội báo cáo trực tiếp với lãnh đạo huyện về diễn biến và kết quả trận đánh. Huyện đội đã cử trinh sát xuống Bình Thành phối hợp với lực lượng của xã đến kiểm tra hiện trường, đề phòng trường hợp trái gài còn sót lại chưa nổ. Kết quả trận đánh được trinh sát huyện đội Đức Huệ xác minh chính xác như đài kỹ thuật đã thông báo.

Trận thắng đoàn thuyền bay của địch tại kinh Bờ-nô-ghe có ý nghĩa quan trọng đến phong trào cách mạng của xã Bình Thành. Nhân dân trong xã vui mừng, phấn khởi, an tâm lao động sản xuất và bám trụ lại địa phương. Tâm lý lo ngại trước chiến thuật thuyền bay của địch trong cán bộ, đảng viên, du kích được khắc phục. Tìm được cách khắc chế và đánh tan xác  thuyền bay địch trong mùa nước nổi, lực lượng cách mạng xã Bình Thành đã góp phần quan trọng vào công tác bảo vệ tuyến hành lang chiến lược đi qua địa bàn xã.

Với chiến công tiêu diệt đoàn thuyền bay của địch, các đồng chí: Lữ Văn Xê, Huỳnh Văn Dững, Trần Văn Chuối, Huỳnh Văn Giao, Nguyễn Văn Cạn đã được Bộ Tư lệnh Phân khu II (Bắc Long An) tặng danh hiệu Dũng sĩ cấp III đánh cơ giới.

Ngày 18/3/1970, Mỹ giật dây cho Lon-non đảo chánh lật đổ Xi-ha-núc, lập chính phủ mới để thực hiện âm mưu đánh sang đất Campuchia, tiêu diệt các căn cứ đầu não ở chiến trường B2 và cắt đứt đường hành lang chiến lược của cách mạng. Biết được ý đồ của giặc, đầu tháng 4/1970, cấp trên ra mật lệnh cho các xã vận động quần chúng tạm lánh về Miền để tránh cuộc càn lớn của giặc. Trong khi xã Bình Thành đang thực hiện lệnh trên thì ngày 14/4/1970 địch đem quân đánh vào khu vực Đìa Gai, Mỏ Vẹt, đốt phá nhà cửa, vơ vét lúa gạo, trâu bò của dân. Hai ngày sau, chúng rút về Đức Hòa để củng cố lực lượng. Đến ngày 1/5/1970,  Mỹ - ngụy sử dụng 38 trung đoàn bộ binh, 22 tiểu đoàn pháo, 17 thiết đoàn xe tăng và không quân (có cả máy bay B52) mở cuộc càn lớn vào khu vực biên giới Mỏ Vẹt. Quân địch chia làm 3 mặt: từ Tây Ninh đánh xuống, từ Kiến Tường đánh lên và từ Đức Huệ đánh vào. Các đơn vị vũ trang cách mạng có mặt tại khu vực biên giới đã chiến đấu quyết liệt với địch. Nhưng vì tương quan lực lượng quá chênh lệch nên cán bộ, chiến sĩ ta hy sinh rất nhiều. Bọn chúng thẳng tay bắn giết nhân dân, gây ra cảnh đau thương, tang tóc chưa từng có. Trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, ác liệt ấy, chỉ trong ngày  2/5/1970,  ba cán bộ xã Bình Thành đã hy sinh là: Trần Văn Chuối - Xã đội trưởng, Huỳnh Văn Giao - Bí thư đoàn thanh niên, Nguyễn Văn Tiệm - Trưởng ban An ninh ấp. Về phía nhân dân, những người còn sống phải tản cư ra vùng địch hoặc lùi sâu vào đất Campuchia. Lúc bấy giờ, Thường vụ Huyện ủy đã làm việc với lãnh đạo xã Bình Thành bàn biện pháp tránh thế mạnh trước mắt của giặc để bảo toàn lực lượng, hạn chế mất mát, hy sinh. Tạm thời, cán bộ, đảng viên và du kích xã rút về Bình Thành, nhưng lúc này đồng khô, cỏ cháy quá trống trải, không nơi ẩn nấp nên mọi người phải ra khu vực Mớp Xanh. Ở đây có một rộc sậy lớn, nước ngọt, nhiều cá, tương đối đủ điều kiện để sống qua lúc gian nguy, thắt ngặt. Ban ngày, mọi người chém vè trong rộc sậy ở Mớp Xanh, ban đêm thì chia thành từng tổ 2 - 3 người đi chôn cất đồng bào, chiến sĩ đã hy sinh. Đến ngày 6/5/1970, khi đoàn xe M13, M 41 của địch rút ra Giồng Két, một thanh niên Bình Thành là Huỳnh Văn Bửu đã dùng mìn chống tăng của ta gài trên đường đi, làm nổ tung 1 chiếc M13 làm cho địch một phen hoảng hốt.

Trận càn quy mô lớn của Mỹ-ngụy kéo dài từ đầu tháng 5 đến cuối tháng 6/1970 thì kết thúc. Tuy quân Mỹ đã rút đi từ đầu tháng 7/1970 nhưng quân ngụy vẫn còn càn quét vùng biên giới cho đến tháng 9/1970. Vì chiến tranh quá ác liệt, nhân dân nơi đây phải tản cư về Đức Hòa hoặc sang Tây Ninh. Vì thế, Bình Thành trở thành vùng trắng. Cán bộ, đảng viên, du kích bám trụ ở xã gặp phải muôn vàn khó khăn, thử thách. Nhiều người đã hy sinh hoặc bị địch bắt, trong đó có đồng chí Lữ Văn Xê - Bí thư xã. Ngày 22/9/1970, đồng chí Lữ Văn Xê và Bùi Văn Tông đang trú ẩn dưới hầm bí mật thì bị địch phát hiện. Chúng đã dùng chất nổ đánh ngay hầm, làm đồng chí Lữ Văn Xê ngất xỉu còn đồng chí Bùi Văn Tông hy sinh tại chỗ. Sau đó, địch đã tra tấn dã man và giam giữ đồng chí Lữ Văn Xê tại Hố Nai, Phú Quốc đến ngày 23/3/1973 mới trao trả.

Sau khi đồng chí Lữ Văn Xê bị bắt, đồng chín Tám Hòa (Bí thư Huyện ủy) và đồng chí Tám Trang (Phó Bí thư huyện ủy) đã xuống Bình Thành chỉ định đồng chí Võ Văn Sóc giữ chức Bí thư xã, kiêm Trưởng An ninh, đồng chí Huỳnh Văn Giọng làm Xã đội trưởng. Lúc này, địch tăng cường lực lượng đóng thêm một số đồn bót trên địa bàn Đức Huệ, đồng thời đánh phá ác liệt các tuyến đường giao liên từ biên giới xuống các chiến trường của ta. Ở Bình Thành, chúng dùng bom pháo, chất độc khai hoang tàn phá cây cối, địa hình, cắt đứt tuyến hành hang, dồn lực lượng ta vào tình thế khó khăn. Trước sự đánh phá ác liệt của địch, các đơn vị, các cơ quan đa phần bị tan rã, lực lượng các xã chỉ còn từ 3 - 5 người mỗi xã. Vì thế, huyện đội Đức Huệ chủ trương thành lập xã đội liên xã Bình Thành - Mỹ Quý Tây và cử đồng chí Ba Thi - Huyện đội phó trực tiếp thực hiện công tác này. Đồng chí Ba Thi đã xuống làm việc với chi bộ xã Bình Thành và chi bộ xã Mỹ Quý Tây để thành lập xã đội liên xã do đồng chí Năm Não làm Xã đội trưởng, đồng chí Mười Dơn và Sáu Tha làm Xã đội phó. Các đồng chí nói trên đã tổ chức gài 1 bãi trái từ  Đìa Gai đến Ba Thu để đánh địch. Khoảng 5 - 6 tháng sau, bãi trái đã tiêu diệt và tiêu hao hơn 1 trung đội biệt kích ở căn cứ Quéo Ba khi chúng càn quét qua khu vực này.

Từ tháng 10/1970, Trung ương Cục sáp quyết định nhập Phân khu 2 và Phân khu 3 thành Phân khu 23, đồng thời xác định nhiệm vụ chính của Phân khu 23 là đánh phá kế hoạch bình định nông thôn của địch. Là một huyện thuộc Phân khu 23, Đức Huệ có nhiệm vụ tập trung bảo vệ các tuyến hành lang chiến lược, đồng thời chống phá chương trình bình định nông thôn của địch ở những vùng còn dân. Để thực hiện nhiệm vụ này, Huyện ủy chủ trương tổ chức, củng cố lại đại đội địa phương huyện và du kích các xã. Tuy nhiên, hoạt động của bộ đội và du kích vẫn còn hạn chế, chưa đạt được hiệu quả như  những năm 1965 - 1967.

Trong 6 tháng đầu năm 1971, quân ngụy bị bộ đội ta đánh tan tác ở chiến trường đường 9 Nam Lào và Đông Bắc Campuchia. Với chiến thắng này, ta đã bảo vệ và phát triển hành lang chiến lược bắc-nam, đồng thời làm suy yếu quân ngụy, đưa chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ đến chỗ phá sản. Trên cơ sở đó, vào tháng 8/1971, Trung ương Cục và Quân ủy Miền đã vạch ra kế hoạch tấn công chiến lược năm 1972 với mục đích tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng, đánh bại chương trình bình định của địch, giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược về quân sự để tạo thế cho mặt trận ngoại giao tại hội nghị Pa-ri. Phân khu ủy Phân khu 23 đã cụ thể hóa kế hoạch tấn công chiến chiến lược năm 1972 của Trung ương Cục bằng việc phát động đợt hoạt động “Chồm lên” trên toàn phân khu. Từ cuối năm 1971, Phân khu ủy đã chỉ đạo cho các đơn vị vũ trang và một số cấp ủy địa phương còn đóng ở đất bạn Campuchia về bám chiến trường. Một số cán bộ chủ chốt của Phân khu ủy và Bộ Tư lệnh Phân khu đã từ  Ba Thu về khu vực Giồng Ông Bạn (xã Bình Thành) để trực tiếp chỉ đạo cho đợt hoạt động. Nhiệm vụ của Bình Thành lúc bấy giờ là chuẩn bị điều kiện cho các cơ quan, đơn vị cấp trên đứng chân trên địa bàn xã, lấy đó làm bàn đạp thọc sâu xuống chiến trường Nam lộ 4, đồng thời góp phần giữ vững tuyến hành lang chiến lược của cách mạng. Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng ấy, chi bộ Bình Thành tiến hành xây dựng, củng cố lực lượng bảo vệ hành lang và tổ chức vận động nhân dân đang sống ở nơi khác trở về địa phương cất chòi làm ăn sinh sống, tạo thế cho các cơ quan, đơn vị hoạt động.

Để ngăn chặn những hoạt động chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược năm 1972 của ta, địch đã ra sức càn quét, dùng phi pháo ngăn chặn khu vực ven đô và tuyến sông Vàm Cỏ Đông. Ở biên giới, chúng điều 2 tiểu đoàn biệt động  đánh phá khu vực từ Ba Thu đến Sam Rôn và đóng chốt tại Ngã ba Bình Thành nhằm cắt đứt tuyến hành lang chiến lược từ biên giới xuống Long An. Về phía ta, bộ đội tỉnh đã phối hợp với du kích xã quyết tâm đánh bại những cuộc càn quét của địch, giữ vững tuyến hành lang bằng mọi giá. Cuối năm 1971, bộ đội chủ lực tỉnh phối hợp du kích xã Bình Thành đã đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 7 của địch tại Giồng Manh Manh, diệt 70 tên, thu nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh. Bên cạnh đó, du kích xã Bình Thành đẩy mạnh hoạt động tiêu hao sinh lực địch bằng cách sử dụng vũ khí tự tạo và trái gài, góp phần giữ vững tuyến hành lang. Nhờ đó, các đơn vị vũ trang của ta có điều kiện hoạt động mở vùng, mở mảng ở ven sông Vàm Cỏ Đông trong đợt “Chồm lên” năm 1972. Phối hợp với các đơn vị chủ lực, du kích Bình Thành đã cùng với bộ đội địa phương Đức Huệ chặn đánh các cuộc càn quét của địch, bao vây căn cứ Quéo Ba và Kinh Xáng - Trà Cú bằng vũ khí tự tạo và bắn tỉa, buộc chúng phải co lại.

Từ năm 1968 đến 1972, phong trào cách mạng xã Bình Thành đã gặp rất nhiều khó khăn, thử thách, tưởng chừng không thể vượt qua nổi,  đặc biệt là từ sau cuộc càn Đông Dương vào tháng 5/1971. Địch đã càn quét, bắn phá ác liệt, biến Bình Thành trở thành vùng trắng. Vì thế, lực lượng làm công tác bám trụ địa bàn và bảo vệ hành lang phải gánh chịu vô vàn gian khổ, hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao. Với tinh thần kiên cường, dũng cảm, tự lực cánh sinh, Đảng bộ và nhân dân Bình Thành từng bước vượt qua khó khăn, gây dựng lại phong trào, phối hợp cùng bộ đội tỉnh, huyện giữ vững hành lang chiến lược từ biên giới xuống các chiến trường. Với thành tích ấy, Đảng bộ và nhân dân Bình Thành đã góp phần vào thắng lợi chung của toàn miền trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, buộc Mỹ - ngụy phải xuống thang, ký kết Hiệp định Pa-ri, rút quân Mỹ về nước vào đầu năm 1973.

5. Phát triển vùng căn cứ , giữ  vững hành lang chiến lược, góp phần giải phóng huyện Đức Huệ, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược năm 1972 của cách mạng đã có tác động mạnh trên mặt trận ngoại giao, dồn Mỹ - Ngụy vào thế bị động, phải ngồi vào bàn đàm phán và chính thức ký kết Hiệp định Pa-ri vào ngày 27/1/1973. Nội dung cơ bản của Hiệp định là quân Mỹ rút khỏi miền Nam và ngưng tất cả các hoạt động quân sự ở Việt Nam. Ở miền Nam tồn tại 2 chính quyền, 2 quân đội, hai bên ngừng bắn và giữ nguyên trạng về vùng kiểm soát của mỗi bên. Hiệp định Pa-ri đánh dấu thắng lợi  to lớn về chính trị của cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, là tiền đề quan trọng để giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Tuy nhiên, bọn ngụy đã ngoan cố, không chịu thi hành Hiệp định mà còn vạch ra kế hoạch Hùng Vương với nội dung chủ yếu như sau: chủ động tấn công trước và sau Hiệp định, đẩy mạnh càn quét, bình định, giành chủ động trên khắp lãnh thổ, ngăn không cho “Cộng sản” lấn chiếm, gia tăng hoạt động “Phượng Hoàng” để phát hiện và tận diệt cơ sở hạ tầng của “Cộng sản”.

Trước âm mưu, thu đoạn của địch, trên cơ sở quán triệt chủ trương của Trung ương Đảng, Thường vụ tỉnh ủy Long An[9] đã họp và ra chỉ thị với nội dung chính là: tăng cường tuyên truyền, giáo dục cho quần chúng thấy rõ bản chất hiếu chiến của địch, kiên quyết trừng trị địch vi phạm hiệp định, đẩy mạnh tiến công chính trị trên cơ sở pháp lý của hiệp định.

Sáng ngày 28/2/1973, trên toàn huyện Đức Huệ, cuộc chiến giành dân giữ đất của cách mạng chống lại thủ đoạn càn quét, cắm cờ, lấn đất của địch đã diễn ra hết sức quyết liệt và dai dẳng hàng tháng trời. Ở Bình Thành, ngoài việc dùng bom pháo điên cuồng bắn phá cày nát địa hình, địch còn tung lực lượng địa phương quân, biệt kích, thám báo hoạt động mạnh, gây cho ta nhiều khó khăn. Càng ngày, địch càng lộ rõ âm mưu phá hoại hiệp định bằng những thủ đoạn tráo trở, lật lọng. Theo thỏa thuận của Ban Liên hợp đình chiến 4 bên, khu vực Hội đồng Sầm được chọn làm địa điểm trao trả tù binh vào ngày 15/5/1973. Để đề phòng âm mưu đánh cướp tù binh của địch, Tỉnh đội đã điều Tiểu đoàn 1 về  làm nhiệm vụ bảo vệ khu vực Hội đồng Sầm. Đại đội 1, đại đội 2 cùng trung đội trinh sát và súng cối 82 bố trí ở Giồng Lớn, còn đại đội 3 bố trí ở Giồng Manh Manh thuộc xã Bình Thành. Đúng như ta dự  đoán, chiều 14/5/1973, địch đã pháo kích dữ dội vào địa điểm trao trả tù binh và điều tiểu đoàn bảo an 303 từ sôngVàm Cỏ Đông đổ bộ, đóng quân ở Giồng Lớn. Ngay trong đêm 14 rạng 15/5/1973, Tiểu đoàn 1 tấn công  địch từ 3 hướng, tiêu diệt khoảng 50 tên, bắt sống 6 tên, thu 5 súng. Sự kiện này đã chứng minh rằng không thể có hòa bình bằng sự  nhân nhượng, không còn cách nào khác, ta phải dùng biện pháp quân sự để đánh bại những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù.

Từ thực tiễn ấy, từ giữa năm 1973, Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền đã chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, mở đường cho những hoạt động quân sự có tính chất phản công của ta trước hành động lấn chiếm của địch. Trên cơ sở quán triệt chỉ đạo của cấp trên, tỉnh ủy Long An đã ra nghị quyết về việc thực hiện nhiệm vụ giữ đất, giành dân, phát huy mạnh mẽ khả năng của 3 thứ quân trong tỉnh, đánh mạnh, đều, liên tục nhằm tiêu diệt sinh lực địch để tạo thế và lực mới. Ở vùng giải phóng, Tỉnh ủy chỉ đạo ngoài nhiệm vụ bảo vệ vững chắc địa bàn, cần chú trọng công tác xây dựng Đảng và các tổ chức quần chúng vững mạnh. Thực hiện chỉ đạo của Tỉnh ủy, chi bộ Bình Thành đã củng cố, kiện toàn tổ chức về số lượng và chất lượng, xây dựng, phát triển đội du kích xã, vận động nhân dân trở về nhà cũ lao động sản xuất và làm chỗ dựa cho cách mạng. Trước tiên, có 10 gia đình cách mạng[10] đã về bám trụ xã Bình Thành để lao động sản xuất, tạo thế hợp pháp với địch, buộc  Sư đoàn 7 ngụy phải công nhận. Những hộ này đã canh tác 24 mẫu ruộng, thu hoạch được 2400 giạ lúa để phục vụ đời sống và ủng hộ cách mạng. Các gia đình này đã giúp Chi bộ Bình Thành cất nhà ở đều khắp trong 3 ấp để chứng tỏ với Ủy hội quốc tế giám sát việc thi hành Hiệp định Pa - ri rằng Bình Thành không phải là đất trắng mà là vùng đất có dân, thuộc thẩm quyền quản lý của cách mạng. Việc đưa dân trở về xã đòi hỏi sự tập trung lãnh đạo sâu sát của chi bộ và tinh thần kiên cường, dũng cảm của nhân dân vì kẻ thù đã không khoanh tay ngồi nhìn mà dùng mọi thủ đoạn để ngăn cản. Trong gian khổ đã xuất hiện những tấm gương bám trụ kiên cường mà điển hình là vợ đồng chí Tư Thân. Có một hôm bọn địch cho trực thăng quần đảo vào xã Bình Thành bắt vợ đồng chí Tư Thân và 2 con nhỏ đứng dưới cột cờ rồi bắn nát khu vực xung quanh chân 3 người ra ngoài 3m để khủng bố tinh thần. Vì chồng, vì cách mạng và vì tổ quốc, vợ đồng chí Tư Thân đã chịu đựng đến mức tột cùng, kiên quyết bám đất, giữ làng, không sờn lòng trước sự tàn nhẫn của kẻ thù.

Trên cơ sở tổ chức Đảng vững mạnh, các tổ chức quần chúng như Nông hội, Thanh niên, Phụ nữ...được xây dựng, làm nòng cốt cho phong trào thi đua lao động sản xuất, tòng quân giết giặc, đóng góp nuôi quân...Nhờ đó, Bình Thành trở thành chỗ dựa vững chắc cho các cơ quan và đơn vị vũ trang của tỉnh. Từ nửa cuối năm 1973, Tỉnh ủy, Tỉnh đội và các cơ quan trực thuộc đã về đóng căn cứ tại Giồng Ông Bạn, xã Bình Thành để trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng trên toàn tỉnh, cụ thể như sau:

-Thường trực Tỉnh ủy, Văn phòng Tỉnh ủy đóng ở nhà ông Hai Trạng.

- Các bộ phận: bảo vệ, văn thư, nghiên cứu, quản trị hành chánh, cơ yếu đóng  trong khuôn viên nhà ông Hai Trạng.

-Bộ phận điện đài: đóng ở Ma Ren.

-Ban Dân vận đóng ở nhà ông Một Nhiệm.

-Ban Tổ chức đóng ở nhà ông Hai Càng.

-Cơ quan Mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh Long An đóng ở nhà ông Tư Trau.

-Nhà In Phan Văn Mảng đóng ở đìa Mỏ Cộ.

-Trường Huấn luyện chính trị của Khu 8: đóng ở nhà ông Tư Cầu.

Từ giai đoạn này, ngoài nhiệm vụ giữ vững vùng giải phóng, bảo vệ hành lang, Bình Thành còn phải bảo đảm bí mật, an toàn cho Tỉnh ủy và các cơ quan trực thuộc đang trú đóng trên địa bàn xã.

Tại căn cứ Tỉnh ủy ở khu vực Giồng Ông Bạn, xã Bình Thành, tháng 11/1973, Tỉnh ủy Long An đã họp hội nghị quán triệt Nghị quyết 21 của Trung ương và Nghị quyết 12 của Trung ương Cục, đồng thời kiểm điểm rút kinh nghiệm công tác chống lấn chiếm, bảo vệ vùng giải phóng. Nghị quyết Tỉnh ủy đã nêu rõ: “Quán triệt và xuyên suốt quan điểm bạo lực cách mạng, đánh địch trên cả 3 mặt, tập trung xây dựng cả 3 thứ quân để đánh bại âm mưu bình định, lấn chiếm của địch.”[11]Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy, trong mùa khô năm 1974, quân dân Long An đã liên tục đánh địch và giành được những thắng lợi quan trọng trên cả 2 chiến trường Bắc và Nam lộ 4. Ở Bình Thành, du kích xã phát triển lên đến 1 trung đội tổ chức nhiều trận đánh địch bằng vũ khí tự tạo và phối hợp, hỗ trợ bộ đội tỉnh, huyện phục kích những cuộc hành quân càn quét, lấn chiếm của địch. Nhân dân Bình Thành trở về xã ngày một nhiều, những người chưa có điều kiện về hẳn thì ban ngày ra vùng giải phóng làm ăn, ban đêm trở về vùng tranh chấp và làm nhiệm vụ đưa tin tức, tiếp tế lương thực, thuốc men cho cách mạng. Chi bộ còn tập trung lãnh đạo công tác binh vận, thông qua người thân của binh sĩ ngụy tuyên truyền, giác ngô họ buông súng về vùng giải phóng theo cách mạng. Công tác này đã đạt được những kết quả đáng kể, có 5 binh sĩ ngụy đã trở về với chính nghĩa của dân tộc, trong đó có 1 sĩ quan cấp chuẩn úy. Xã đội Bình Thành đã tiếp nhận và trực tiếp giúp đỡ những binh sĩ này. Tình hình xã Bình Thành ngày một khởi sắc, tuyến hành lang và đường giao liên được nối liền và mở rộng. Hàng chục thanh niên Bình Thành đã hăng hái tòng quân, hàng trăm đồng bào khác trong xã đã tham gia lực lượng dân công vận chuyển lúa gạo từ Đức Hòa về vùng căn cứ để nuôi quân. Với phong trào cách mạng ngày càng phát triển, xã Bình Thành trở thành căn cứ vững chắc của Tỉnh ủy và là bàn đạp để các đơn vị vũ trang tiến công quân địch.

Cuối năm 1974, trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình và thời cơ chiến lược, Bộ chính trị Trung ương Đảng đã hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong vòng 2 năm 1975 - 1976. Đầu 1975, quân giải phóng chiếm tỉnh Phước Long trong sự bất lực của ngụy quân, ngụy quyền. Thắng lợi này đã khẳng định thêm quyết tâm giải phóng miền Nam của Trung ương. Tháng 3/1975, bộ đội ta mở chiến dịch Tây Nguyên, đập tan Quân đoàn 2 của Ngụy, buộc địch  địch rút bỏ Quân khu II. Sau đó là thắng lợi của chiến dịch Huế - Đà Nẵng, xóa bỏ Quân khu I, đẩy ngụy quyền vào tình thế tuyệt vọng.

Tháng 3/1975, Tỉnh ủy họp lần sau cùng tại căn cứ Bình Thành để triển khai nhiệm vụ cấp trên giao cho Long An trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 là phục vụ chiến đấu cho lực lượng chủ lực miền và tham gia tiến công trực tiếp vào Sài Gòn từ phía tây nam. Khẩu hiệu của Tỉnh ủy đưa ra là: “Xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh”. Từ tháng 3/1975, phong trào dân công hỏa tuyến ở Bình Thành phát triển rất mạnh. Hàng trăm dân công đã đưa xuồng chở thương binh về tuyến sau và tiếp lương, tải đạn cho tiền tuyến. Xuồng ghe tấp nập suốt ngày đêm trên đất Bình Thành dọc theo tuyến kinh Bo Bo, kinh Ma Ren. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, dân công Bình Thành còn tham gia đưa đón, dẫn đường cho bộ đội, chặt cây cối, lấp bưng, tạo điều  kiện cho các đoàn xe quân sự của quân giải phóng vượt sông Vàm Cỏ Đông, tiến về Sài Gòn.

Đúng 11h30 ngày 30/4/1975, trước sức tiến công thần tốc và vũ bão của quân giải phóng, Tổng thống ngụy Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Sự kiện này đã đánh dấu thắng lợi hoàn toàn của nhân dân Việt Nam nói chung và nhân dân Bình Thành nói riêng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược. Tại thời điểm lịch sử này, tỉnh ủy Long An vẫn còn ở căn cứ Bình Thành. Đến chiều ngày 30/4/1975, đồng chí Nguyễn Văn Mới - Bí thư Tỉnh ủy và một số cơ quan mới trở về tiếp quản thị xã Tân An.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam nói chung và nhân dân Bình Thành nói riêng đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Trong quá trình đấu tranh lâu dài và gian khổ ấy, quân và dân Bình Thành đã chiến đấu 270 trận lớn nhỏ, diệt và làm tan rã 850 tên địch, trong đó có  2 trung đội biệt kích Mỹ gồm 41 tên, phá hỏng 5 phi thuyền, bắn rơi 3 máy bay, 2 lần phá huỷ đồn bót, cứ điểm của địch. Nhân dân Bình Thành đã đóng góp cho cách mạng trên 1200 tấn lương thực dưới hình thức đảm phụ nuôi quân, công phiếu nuôi quân và hàng ngàn ngày công để đào kinh kháng chiến, vận chuyển vũ khí, lương thực...Vì thế, nhân dân Bình Thành đã được tặng Huân chương Kháng chiến hạng I về thành tích đóng góp sức người, sức của và đấu tranh chính trị. Đã có 312 người con của Bình Thành trực tiếp tham gia vào lực lượng vũ trang, trực tiếp chiến đấu với kẻ thù, trong đó có 155 bộ đội và 157 du kích. Về những đóng góp máu xương, Bình Thành có 165 liệt sĩ, 89 thương binh, 112 đồng bào bám trụ đã chết và bị thương do bom đạn giặc. Cho đến nay, đã có   ... được phong tặng danh hiệu cao quý Mẹ Việt Nam anh hùng. Với những thành tích đáng tự hào ấy, Bình Thành đã vinh dự được Chủ tịch Nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vào ngày 28/4/2000. Phát huy truyền thống cách mạng oanh liệt ấy, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Bình Thành đã không ngừng phấn đấu để lập nên những thành tích đáng tự hào trên chặng đường xây dựng quê hương sau ngày giải phóng.


CHƯƠNG BA

BA MƯƠI NĂM XÂY DỰNG, BẢO VỆ QUÊ HƯƠNG

                                   (1975-2005)

I. MƯỜI NĂM ĐẦU SAU NGÀY GIẢI PHÓNG (1975-1985)

1.Từ sau ngày thống nhất đất nước cho đến kết thúc chiến tranh  biên giới Tây Nam (30/4/1975 - đầu 1979)

1.1-Thực trạng xã Bình Thành sau ngày giải phóng:

Chiến thắng vĩ đại ngày 30/4/1975 đã mở ra một chương mới trong lịch sử của dân tộc Việt Nam: từ đây đất nước thống nhất, đồng bào Nam -Bắc được sum họp một nhà. Nhân dân cả nước nói chung và nhân dân Bình Thành nói riêng hết sức phấn khởi, tự hào với thắng lợi vĩ đại của công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đây là động lực mạnh mẽ thúc đẩy mọi người nhanh chóng bắt tay vào công cuộc xây dựng lại quê hương dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh kéo dài suốt 30 năm đã để lại xã Bình Thành những di chứng hết sức nặng nề. Bom tấn, pháo bầy, chất độc hóa học của Mỹ - ngụy đã làm cho ruộng vườn tan nát, hố bom, lỗ pháo chi chít khắp nơi, môi trường sinh thái bị hủy diệt nghiêm trọng đến mức không còn một bóng cây cổ thụ che mát. Hầu như gia đình nào ở Bình Thành cũng có người thân hy sinh hoặc đóng công của, sức lực cho cách mạng. Cảnh chia ly tan tác, con mất cha, vợ mất chồng, tre già phải khóc măng non là nỗi đau đớn khôn nguôi trong tâm hồn nhân dân Bình Thành. Do phải nhiều lần tản cư lánh nạn để bảo toàn tính mạng nên của cải vật chất của nhân dân hầu như bị mất hết, chỉ còn lại những vật dụng phục vụ nhu cầu tối thiểu hàng ngày. Vì vậy, những người còn sống sót qua chiến tranh chỉ còn lại hai bàn tay trắng, thiếu thốn đủ mọi điều từ lương thực, thuốc men, nhà cửa đến phương tiện sản xuất. Với điều kiện như thế, khi về lại quê hương, nhân dân Bình Thành đã gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống. Không có phương tiện cơ giới để phục vụ cho việc khai hoang phục hóa, san lấp hố bom, chỉ có lao động thủ công là chính. Giống má, phân bón đều thiếu thốn, đồng bào phải tận dụng nguồn phân xanh, phân chuồng để sản xuất nên năng suất lúa rất thấp. Do diện tích hoang hóa còn nhiều, năng suất lúa thấp nên đồng bào không đủ lương thực để ăn, nguy cơ thiếu đói rất cao.  Trong khi đó, trong toàn xã không còn một cơ sở vật chất nào đáng kể, tất cả phải xây dựng từ đầu. Đường giao thông thì lệ thuộc vào thiên nhiên, địa hình xã bị sông rạch chia cắt nên không thể hoàn toàn sử dụng đường bộ hoặc đường thủy. Mùa nước nổi thì có thể đi lại bằng xuồng nhưng cũng không đến nơi đến chốn mà chỉ đi đước từng đoạn, từng giồng. Vì giao thông không thuận tiện nên ảnh hưởng rất lớn đến đời sống và sản xuất của nhân dân. Mỗi khi muốn mua sắm bất cứ thứ gì, đồng bào phải đi chợ mất một ngày đường. Trường học, trạm y tế, trụ sở làm việc của bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể đều không có, phải xây dựng tạm bợ bằng cột tre, mái đưng, bàng - loại vật liệu duy nhất còn sót lại ở Bình Thành sau chiến tranh. Chi bộ đảng xã Bình Thành lúc bấy giờ có khoảng 20 đồng chí do đồng chí Võ Văn Sóc làm Bí thư, được chia thành 3 tiểu tổ sinh hoạt ở 3 ấp trong xã. Tuy số lượng đảng viên tương đối đông nhưng sau quá trình cống hiến cho Đảng qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, một số đồng chí đã tuổi cao sức yếu, số còn lại trẻ hơn nhưng cũng bị thương tật nên hạn chế rất nhiều trong công tác. Trình độ học vấn  của đa số số cán bộ, đảng viên  rất thấp, lại không có kinh nghiệm về quản lý nên gặp nhiều khó khăn, lúng túng khi tiếp quản chính quyền. Đây là những khó khăn chủ yếu mà chi bộ, chính quyền và nhân dân xã Bình Thành cần phải nỗ lực khắc phục.

Bên cạnh những khó khăn trên, Bình Thành có những thuận lợi hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự thắng lợi của công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng lại quê hương. Một là, chi bộ, chính quyền và nhân dân Bình Thành được lãnh đạo bởi đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam mà trực tiếp là huyện ủy Đức Huệ. Hai là, nhân dân Bình Thành có truyền thống yêu nước, anh hùng, bất khuất trong chiến đấu bảo vệ quê hương, đã từng trải qua gian khổ, hy sinh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân pháp và đế quốc Mỹ. Phần lớn các hộ dân ở Bình Thành đều là gia đình liệt sĩ, thương binh, có công giúp đỡ cách mạng. Vì thế, nhân dân Bình Thành không ngại gian khổ khó khăn trước mắt mà hết lòng hết sức ủng hộ Đảng, ủng hộ chính quyền cách mạng, đồng thời tham gia tích cực vào công cuộc xây dựng lại quê hương sau chiến tranh. Ba là, Đảng bộ xã Bình Thành có nhiều kinh nghiệm trong lãnh đạo nhân dân vượt qua những khó khăn, thử thách trong chiến tranh, vì thế, tập thể đảng viên và cấp ủy xã Bình Thành có đủ bản lĩnh để đoàn kết nhân dân trong xã thành một khối thống nhất để vượt qua mọi khó khăn, thử thách.

Từ thực trạng trên, chi bộ, chính quyền cách mạng xã Bình Thành đã bước vào chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng.

1.2-Xây dựng, củng cố chính quyền nhân dân, hàn gắn vết thương chiến tranh, chiến đấu bảo vệ tổ quốc trong Chiến tranh Biên giới Tây Nam:

Phát huy truyền thống anh hùng, bất khuất trong hai cuộc kháng chiến thống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ngay từ sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chi bộ đảng xã Bình Thành đã bắt tay vào việc xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng, lãnh đạo nhân dân hàn gắn vết thương chiến tranh, khắc phục những hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại và từng bước ổn định đời sống.

Như đã nói trên, trong thời kỳ đầu sau giải phóng, đời sống nhân dân Bình Thành còn chưa ổn định và gặp nhiều khó khăn, chưa thể thích nghi với tình hình mới. Đội ngũ cán bộ, đảng viên còn thiếu kinh nghiệm trong công tác quản lý toàn diện đời sống xã hội nên còn bở ngỡ, lúng túng trong công tác lãnh đạo. Vì thế, công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân quán triệt tình hình, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách. Ngay từ khi tiếp quản chính quyền, chi bộ Bình Thành đã tiến hành củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy lãnh đạo đảng, chính quyền, tích cực làm công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục nhân dân kiên định lập trường tư tưởng, đoàn kết thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, tất cả vì mục tiêu xây dựng quê hương. Chi bộ đã lựa chọn những đảng viên đã kinh qua kháng chiến, có đầy đủ uy tín, đạo đức cách mạng và năng lực làm việc để bố trí vào những vị trí chủ chốt trong bộ máy chính quyền và các ban ngành, đoàn thể của xã. Bên cạnh đó, chi bộ tiến hành ngay công tác đào tạo đội ngũ  kế thừa bằng cách đưa cán bộ đi học các lớp chuyên môn ở tỉnh và tập huấn các lớp ngắn hạn ở huyện. Nhờ đó, bộ máy lãnh đạo đảng, chính quyền, đoàn thể của xã nhanh chóng được xây dựng và kiện toàn, cụ thể như sau:

-Chi bộ Đảng được bầu theo nhiệm kỳ 2 năm. Trong 10 năm đầu sau ngày giải phóng, các đồng chí sau lần lượt giữ cương vị bí thư xã Bình Thành: Võ Văn Sóc tiếp tục làm Bí thư giai đoạn 1975 - 1976, đồng chí Trần Văn Truyền làm Bí thư năm 1977, đồng chí Lê Văn Mới làm Bí thư giai đoạn 1977 – 3/1984, đồng chí Trần Tứ Thư làm Bí thư giai đoạn 4/1984- 10/1984, đồng chí Lữ Văn Nu làm Bí thư từ 11/1984 - 5/1987).

- Ủy ban nhân dân xã được Hội đồng nhân dân bầu ra thay cho chính quyền quân quản từ giữa năm 1976. Ủy ban nhân dân đầu tiên sau ngày giải phóng của xã Bình Thành gồm các đồng chí: Lê Văn Mới (Chủ tịch), Lữ Văn Sóc (Phó chủ tịch), Nguyễn Văn Hát (Trưởng Công an), Nguyễn Văn Vân (Xã đội trưởng), Lê Thị Dẽn (Trưởng ban thương binh - xã hội), Huỳnh Minh Luận (Trưởng ban Văn hóa - Thông tin). Trong các nhiệm kỳ sau, những đồng chí sau đây được bầu làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã: Ngô Văn Chát (1979 - 1981), Lữ Văn Bon (1982 - 1983), Lữ Văn Nu (1984-1985).

- Các đoàn thể chính trị-xã hội của Bình Thành như Nông hội, Đoàn Thanh niên, Hội phụ nữ cũng được xây dựng. Đứng đầu các đoàn thể ấy là các đồng chí: Huỳnh Văn Nhạ (Trưởng ban Nông hội), Nguyễn Thị Bởi (Hội trưởng Phụ nữ), Lê Vũ Mến (Bí thư Đoàn Thanh niên).

Trên cơ sở phát huy thuận lợi và khắc phục từng bươc những khó khăn, chi bộ, chính quyền và các đoàn thể đã lãnh đạo thực hiện công tác ổn định đời sống nhân dân, hàn gắn vết thương chiến tranh, thể hiện qua các mặt sau:

+Về kinh tế:

Xã Bình Thành lúc bấy giờ có diện tích tự nhiên 9100 ha nhưng phần lớn đều hoang hóa, chỉ có khoảng hơn 200 ha là có thể sản xuất nông nghiệp, phân bố chủ yếu ở giồng Ông Bạn, giồng Cây Xoài (ấp 1), giồng Lớn (ấp 2), giồng Cát, giồng Bộ Sô (ấp 3), khu Bơ-nô-ghe (ấp 4). Trong sản xuất nông nghiệp, nhân dân chỉ dùng phân hữu cơ, chưa sử dụng phân hóa học và giống mới nên năng suất thấp. Vì thế, số hộ sản xuất lúa còn ít, phần lớn nhân dân sống bằng nghề khai thác sản vật thiên nhiên như: đánh bắt cá, cắt đưng, nhổ bàng, moi củi lụt chở đi Hậu Nghĩa, Thủ Thừa bán để đổi lấy lương thực. Để tạo nguồn lương thực bảo đảm cho đời sống nhân dân, chi bộ và chính quyền đã vận động nhân dân tích cực khai hoang, phục hóa, chăm lo phát triển sản xuất nông nghiệp. Nhờ đó trong vòng 3 năm sau giải phóng, diện tích sản xuất lúa ở  Bình Thành đã tăng lên 700 ha. Nhân dân còn khai thác 200 ha đất ở khu vực Giồng Cát để sản xuất vụ hè thu, trồng cây công nghiệp và trồng hoa màu. Gần 1000 ha đất ngún cũng được nhân dân tận dụng để sản xuất. Tuy năng suất lúa ở vùng này không cao (khoảng 1,5 tấn/ha) nhưng chi phí bỏ ra thấp nên nông dân có được khoản thu nhập đáng kể. Nhằm tạo điều kiện nâng cao năng suất lúa, xã đã liên hệ với Ban Vật tư nông nghiệp huyện Đức Huệ phân phối phân đạm, phân hóa học cho nhân dân, đến khi thu hoạch thì thanh toán lại cho nhà nước bằng lúa. Nhà nước hóa giá trâu bò của cách mạng còn lại sau ngày giải phóng để tạo nguồn sức kéo giúp dân phát triển sản xuất. Thực hiện chủ trương phát triển kinh tế phụ của huyện, chi bộ, chính quyền xã đã vận động nhân dân trồng bàng, đưng phục vụ xây dựng nhà cửa, còn dư thừa thì bán ra thị trường, đồng thời xã còn xây dựng nhiều lò nấu tinh dầu tràm để tiêu thụ nguồn lá tràm do nhân dân khai thác. Nhờ những chủ trương, biện pháp tích cực trên mà sản xuất nông nghiệp được khôi phục và phát triển, đời sống nhân dân trong xã đi dần vào ổn định.

Về phân phối lưu thông, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, xã đã thành lập Ban Thương nghiệp  xã và 4 tổ kinh tiêu ở 4 ấp để phân phối hàng hóa đến tận tay người tiêu dùng. Sau một thời gian hoạt động, nhận thấy hệ thống trên có nhiều tầng nấc trung gian, cồng kềnh, kém hiệu quả nên cấp trên đã giải thể tổ kinh tiêu ở cấp ấp, chỉ còn lại Ban thương nghiệp ở cấp xã gồm 5 đồng chí. Hàng tháng, hàng quý Ban thương nghiệp đến Phòng Thương nghiệp Đức Huệ trực tiếp nhận hàng hóa về xã phân phối cho nhân dân. Trong điều kiện khan hiếm hàng hóa và khó khăn về giao thông vận tải lúc bấy giờ, hoạt động của Ban thương nghiệp đã phần nào phục vụ được nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.

Trong những năm đầu mới giải phóng, xã Bình Thành gặp rất nhiều khó khăn về kinh phí hoạt động. Để tạo nguồn thu, ngoài việc trích % thuế nông nghiệp theo quy định, thu lệ phí bến bãi tàu đò, thuế thủy sản... ,xã chủ trương mở rộng kinh doanh, thu mua hàng hóa tại chỗ như: đậu Phộng, bao bàng, đệm bàng, dầu tràm, gia súc...bán ra thị trường lấy lãi nộp ngân sách. Đời sống của đội ngũ cán bộ xã lúc bấy giờ cũng rất khó khăn, tiền phụ cấp không đủ sống, đa số đều phụ thuộc vào gia đình. Trước tình thế khó khăn đó, chi bộ và ủy ban xã đã bàn bạc và quyết định phát huy tinh thần tự lực tự cường, mỗi năm sản xuất tự túc 2 ha đất nông nghiệp để lấy lương thực phục vụ những cuộc hội họp cũng như đời sống của những cán bộ thường trực tại xã. Có nguồn lương thực này, những cán bộ khi đi làm việc không lo đói mà chỉ cần kiếm thêm cá, lươn - lúc này còn dồi dào - là có thể đảm bảo cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra, chi bộ, chính quyền xã còn động viên cán bộ tăng gia sản xuất, mỗi người từ 0,5ha đất trở lên để trồng lúa và hoa màu để phát triển kinh tế gia đình. Nhờ đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên của xã đã phần nào ổn định đời sống cá nhân và gia đình, yên tâm công tác, tập trung trí tuệ và sức lực vào công việc chung.

+Về văn hóa xã hội:

Trong những năm đầu mới giải phóng, do phải tập trung giải quyết nhiều vấn đề quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của nhân dân nên lĩnh vực văn hóa xã hội của xã Bình Thành chưa có nhiều khởi sắc. Những hoạt động chủ yếu trong thời kỳ này là tuyên truyền đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, bài trừ tệ nạn mê tín dị đoan như bói toán, đồng bóng, hủ tục trong ma chay, cưới hỏi, xây dựng cho lối sống mới, cổ vũ tinh thần hăng say sản xuất, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Nhưng nổi bật nhất là những hoạt động văn hóa-văn nghệ quần chúng. Được sự quan tâm lãnh đạo của chi bộ và chính quyền, đội văn nghệ xã Bình Thành đã ra đời với khoảng 20 thành viên có năng khiếu về văn hóa - văn nghệ. Buổi đầu mới thành lập, đội văn nghệ thiếu thốn mọi thứ từ trang phục đến nhạc cụ cũng như những trang thiết bị cần thiết cho việc luyện tập, trình diễn. Tuy nhiên, đội đã vượt qua gian khổ, khó khăn, cố gắng xây dựng một số tiết mục văn nghệ phục vụ đời sống tinh thần cho nhân dân, cổ vũ phong trào thi đua lao động sản xuất và chiến đấu giữ gìn biên cương Tổ quốc.

+Về an ninh-quốc phòng:

Bình Thành là xã biên giới, đất rộng người thưa nên gặp nhiều khó khăn trong công tác an ninh quốc phòng. Từ  tháng 8/1977, tập đoàn phản động cầm quyền ở Campuchia, đứng đầu là Pôn Pốt-Iêng Xa - ry ráo riết tăng cường hoạt động quân sự gây hấn ở vùng biên giới Đức Huệ. Thủ đoạn của chúng là dùng lực lượng nhỏ lẻ kết hợp hỏa lực thọc sâu trinh sát nắm lực lượng và sơ hở của ta để tập kích đánh tiêu hao, lấn dần để từng bước đẩy lùi lực lượng ta ra khỏi biên giới. Ngoài ra, chúng còn dùng chông, mìn, bắn tỉa nhân dân và lực lượng vũ trang, gây tình hình căng thẳng nghiêm trọng ở tuyến biên giới, trong đó có xã Bình Thành. Thủ đoạn của chúng đã làm cho nhân dân vùng biên giới nói chung và Bình Thành nói riêng thiệt hại về tính mạng, tài sản, không thể yên tâm lao động sản xuất, phải bỏ ruộng hoang để di tản đi nơi khác. Cuối năm 1977, tỉnh tăng cường lực lượng tại vùng biên giới Đức Huệ, phối hợp cùng bộ đội địa phương và dân quân du kích các xã bố trí nhiều chốt phòng thủ để đánh địch và sẵn sàng cơ động khi cần thiết. Đến  năm 1978, tỉnh rút lực lượng đi nơi khác và chỉ đạo huyện Đức Huệ phải tự lực, tự cường phòng thủ tuyến biên giới. Thực hiện chỉ đạo trên, huyện Đức Huệ đã đề ra chỉ tiêu nhiệm vụ xây dựng 1 tiểu đoàn bộ đội địa phương, xây dựng 1 đại đội du kích ở mỗi xã biên giới, huy động quần chúng xây dựng tuyến giao thông phòng thủ biên giới và xây dựng xã, ấp chiến đấu. Huyện cũng chỉ đạo các xã gấp rút tổ chức thực hiện nhiệm vụ nói trên. Thực hiện chỉ đạo của huyện, chi bộ, chính quyền xã Bình Thành khẩn trương thực hiện công tác tuyên truyền vận động quần chúng, phân tích rõ âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, tình hình địch - ta để ổn định tinh thần nhân dân. Cán bộ xã đã phân tích rõ, sở dĩ địch có thể đánh ta là do ta sơ hở, mất cảnh giác, thiếu tổ chức tuần tra canh gác, chưa xây dựng lực lượng dân quân du kích thành thế trận chiến tranh nhân dân. Vì vậy, muốn bảo vệ được biên giới và tính mạng, tài sản thì nhân dân phải tham gia xây dựng lực lượng du kích, bộ đội để chiến đấu với kẻ thù. Qua sự tuyên truyền, vận động của cán bộ xã, nhân dân Bình Thành đã thông suốt và tự giác bám trụ địa bàn, tham gia tích cực vào phong trào quần chúng tham gia xây dựng lực lượng bảo vệ biên giới do cấp trên phát động. Từ phong trào này, xã Bình Thành đã xây dựng 1 trung đội du kích tập trung được trang bị vũ khí đầy đủ, có cả súng cối và đại liên, mỗi ấp có 1 tiểu đội du kích. Lực lượng du kích xã, ấp thường xuyên luyện tập, sẵn sàng chiến đấu và cơ động khi có chiến sự xảy ra. Xã còn xây dựng các chốt phòng thủ, thường xuyên tuần tra canh gác  cẩn mật dọc theo tuyến biên giới. Mỗi năm 2 lần, xã đều đạt chỉ tiêu tuyển quân do cấp trên giao để bổ sung lực lượng vũ trang của huyện, tỉnh. Nhân dân Bình Thành cũng đã đóng góp hàng ngàn ngày công để xây dựng tuyến đê phòng thủ biên giới và tích cực tham gia phong trào sản xuất vũ khí thô sơ để đánh giặc. Cuối năm 1978, lực lượng địch ở biên giới Đức Huệ đã bị ta đánh lui. Đến đầu năm 1979, bộ đội Việt Nam thực hiện nghĩa vụ quốc tế, giải phóng nước bạn Campuchia  khỏi nạn diệt chủng và kết thúc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam.

Trong cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, xã Bình Thành đã hoàn thành nhiệm vụ phòng thủ biên giới, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, góp phần giữ  vẹn vùng biên cương tổ quốc. Đồng chí Nguyễn Văn Cạn - Xã đội phó xã Bình Thành đã anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ tại biên giới vào ngày 20/6/1978.

Từ sau ngày thống nhất đất nước đến kết thúc chiến tranh biên giới Tây Nam, chi bộ, chính quyền và nhân dân xã Bình Thành đã vượt qua nhiều khó khăn thử thách, bước đầu hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định đời sống, xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng và góp phần bảo vệ vững chắc vùng biên cương Tổ quốc. Những thành tựu này là tiền đề quan trọng để Bình Thành vững bước trên con đường xây dựng quê hương.

2. Giai đoạn 1979-1985:

Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam kết thúc đã đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử  xã Bình Thành. Từ đây, chi bộ, chính quyền và nhân dân Bình Thành có điều kiện tập trung toàn lực vào công cuộc xây dựng quê hương, chăm lo phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của địa phương. Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam tuy xảy ra trong thời gian không dài nhưng đã để lại hậu quả nặng nề đối với Bình Thành - một xã vùng biên giới. Ruộng đồng vừa mới được khai hoang, phục hóa do ảnh hưởng của chiến tranh lại tiếp tục bị bỏ hoang. Trong thời gian này thiên tai, lũ lụt, sâu rầy liên tiếp xảy ra, nhất là trận lũ lịch sử  năm 1978 đã làm cho mùa màng thất thu, xuất hiện nguy cơ thiếu đói, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Trước tình hình ấy, chi bộ, chính quyền xã Bình Thành một mặt tranh thủ sự hỗ trợ của cấp trên, mặt khác vận động nhân dân tương trợ nhau với tinh thần “nhường cơm xẻ áo” để giải quyết nguy cơ thiếu đói. Về lâu dài, căn cứ  chủ trương, đường lối của Đảng và nghị quyết của huyện ủy Đức Huệ, chi bộ, chính quyền xã Bình Thành đã đề ra chương trình, kế hoạch ổn định đời sống nhân dân, từng bước phát triển kinh tế, văn hóa, giữ  vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Cho đến trước khi đổi mới (1986), Bình Thành đã đạt được những thành tựu cơ bản sau:

2.1-Về công tác củng cố tổ chức, xây dựng hệ thống chính trị:

Trước tiên, chi bộ, chính quyền xã tiến hành tinh giản biên chế, chuẩn hóa lại đội ngũ cán bộ. Theo quy định của cấp trên, Bình Thành là xã có dưới 5000 nhân khẩu, vì vậy biên chế cán bộ đảng, chính quyền, đoàn thể của xã không quá 25 đồng chí. Lúc bấy giờ, đội ngũ cán bộ của xã tuy có nhiều kinh nghiệm thực tế, từng kinh qua kháng chiến nhưng hầu hết đều chưa được đào tạo qua trường lớp, trình độ văn hóa còn hạn chế. Vì vậy, công tác chuẩn hóa cán bộ gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình trên, xã đã đẩy mạnh công tác xây dựng đội ngũ kế thừa trên cơ sở lựa chọn những cán bộ trẻ, có năng lực, trình độ, đạo đức đưa đi đào tạo về chính trị và chuyên môn nghiệp vụ. Bên cạnh đó, các đồng chí cán bộ chủ chốt hiện tại cũng tích cực luân phiên nhau tham dự các lớp bồi dưỡng, tập huấn ngắn hạn để nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu của công tác lãnh đạo xã trong thời kỳ mới. Nhờ làm tốt công tác tổ chức mà Bình thành có được đội ngũ cán bộ vững mạnh dựa trên cơ sở phối hợp giữ lớp cán bộ lớn tuổi có kinh nghiệm và lớp cán bộ trẻ, năng động, được đào tạo qua trường lớp. Từ đó bộ máy tổ chức và hệ thống chính trị của xã dần dần được kiện toàn, trở thành hạt nhân nòng cốt để lãnh đạo nhân dân thực hiện công cuộc xây dựng quê hương.

2.2-Về kinh tế:

Trên cơ sở tiềm năng về đất đai, xã Bình Thành đã tập trung phát triển kinh tế nông nghiệp bằng việc xây dựng các chương trình kế hoạch thâm canh, tăng vụ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Xã đã vận động nhân dân mở rộng diện tích, xóa dần tập quán sản xuất 1 vụ, thực hiện sản xuất thêm vụ hè thu ở khu vực Tràm Bò, Tràm Trại, Sậy Đôi, Bình Thảo, Tán Dù, Giồng Cát, Giồng Bô Sô. Nhân dân đã bước đầu ứng dụng khoa học kỹ thuật vào đồng ruộng để phát triển thêm vụ đông xuân ở những nơi có điều kiện tưới tiêu. Tuy nhiên, việc sản xuất vụ đông xuân vẫn còn hạn chế vì lúc này xã chỉ có 1 số kinh nội đồng và ao hồ sẳn có ở từng khu vực chứ chưa có hệ thống kinh thủy lợi liên hoàn trên toàn địa bàn. Xã còn vận động nhân dân tích cực tăng gia sản xuất, tận dụng diện tích đất đai trồng tràm, bàng, bạch đàn để phát triển kinh tế phụ gia đình. Nhiều hộ nông dân Bình Thành đã mạnh dạn đột phá, đi đầu trong việc phát triển kinh tế phụ gia đình. Điển hình như: ông Nguyễn Văn Tại, Nguyễn Văn Xích trồng khoai môn năng suất cao; ông Nguyễn Văn Nghệ, Ngô Văn Nghĩa, Nguyễn Hoàng Anh, Nguyễn Văn Đua, Nguyễn Văn Quỳ ...phát triển cây bàng; ông Nguyễn Văn Giữ, Hà Văn Kịch, Dương Văn Cao, Lữ Văn Ảnh, Hà Văn Rân, Phạm Văn Rở, Đào Văn Phu, Huỳnh Văn Nha, Huỳnh Văn Dạng, Huỳnh Văn Đúng...phát triển cây tràm cừ. Về chăn nuôi, hưởng ứng sự vận động của xã, nhiều hộ nông dân Bình Thành đã tận dụng ưu thế về đất đai, cây cỏ, nông sản để chăn nuôi gia súc, gia cầm theo mô hình VAC. Đặc biệt, nhờ biết khai thác lợi thế về đồng cỏ, nhân dân Bình Thành đã phát triển mạnh đàn trâu bò, thu lợi nhuận rất cao, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế hộ gia đình. Nói chung, nhờ thâm canh, tăng vụ, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, phát triển kinh tế phụ, đẩy mạnh chăn nuôi gia súc gia cầm mà nhân dân Bình Thành từ chỗ thiếu ăn đã vươn lên đủ ăn, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế để góp phần điều hòa lương thực cho cả nước.

Về công tác cải tạo nông nghiệp, theo chỉ đạo của cấp trên, xã Bình Thành tổ chức nhân dân thực hiện 3 giai đoạn quan trọng tương ứng với 3 hình thức là: Đội Sản xuất, Tổ Đoàn kết sản xuất và Tập đoàn sản xuất. Ở hình thức Đội Sản xuất, xã tập trung lãnh đạo nhân dân làm quen với phương thức làm ăn tập thể, đoàn kết giúp đỡ nhau bằng nhiều hình thức như vần đổi công cày cấy, gặt đập. Đại diện của đội có nhiệm vụ nhận vật tư, phân bón, giống má của nhà nước về phân phối cho từng hộ nông dân. Bước tiếp theo của hình thức Đội Sản xuất là Tổ Đoàn kết sản xuất. Đây là mô hình hợp tác sản xuất theo kế hoạch trên cơ sở  quy hoạch đất đai của nhà nước trong từng vùng, từng khu vực để giúp nông dân mở rộng diện tích sản xuất, phát triển kinh tế phụ. Nhà nước căn cứ kế hoạch này để đầu tư phân bón, nhiên liệu sản xuất cho nông dân. Xã thành lập bộ phận phụ trách công tác phân phối lưu thông, có nhiệm vụ nhận phân bón, vật tư nông nghiệp ở huyện về phân phối lại cho từng Tổ Đoàn kết sản xuất. Trên cơ sở đó, các tổ tiếp tục phân phối cho các hộ nông dân theo quy mô sản xuất của từng hộ. Qua thực tiễn hoạt động của các Tổ Đoàn kết sản xuất, xã Bình Thành bắt đầu thực hiện công tác cải tạo nông nghiệp, điều chỉnh ruộng đất, quy hoạch sản xuất cho từng vùng đất, từng khu vực để bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi cho hợp lý, tiến lên thành lập các Tập đoàn sản xuất. Đây là nhiệm vụ quan trọng có tính chiến lược về kinh tế và chính trị mà Đảng và Nhà nước giao, vì vậy chi bộ, chính quyền xã Bình Thành phải tập trung lãnh đạo, phân công những cán bộ có năng lực, phẩm chất  đạo đức và uy tín bám sát cơ sở, vận động nhân dân tham gia tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Việc xây dựng các Tập đoàn sản xuất là một bước đột phá lớn, tác động trực tiếp đến tập quán sản xuất và quyền tư hữu của nông dân nên hết sức khó khăn, phức tạp. Bằng biện pháp kiên trì vận động, thuyết phục, sau 2 năm, Bình Thành đã xây dựng được 18 tập đoàn sản xuất trong toàn xã với 100% hộ nông dân tham gia. Song song với việc thành lập các Tập đoàn sản xuất, Bình Thành còn xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế phụ cho mỗi tập đoàn dựa trên thế mạnh của địa phương trình Phòng Nông nghiệp và Ủy ban nhân dân huyện phê duyệt để tổ chức thực hiện. Nhờ đó, những sản vật thế mạnh của xã như đưng, bàng...được phát triển, phục vụ cho việc xây dựng nhà cửa của dân, còn thừa thì bán cho các xã, huyện lân cận tạo thêm thu nhập. Về nhiệm vụ chính trị, việc xây dựng thành công các tập đoàn sản xuất là một thắng lợi lớn đối với chi bộ, chính quyền và nhân dân xã Bình Thành. Tuy nhiên, hình thức tập đoàn sản xuất này chưa thật sự phù hợp với năng lực quản lý của cán bộ và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất địa phương, lại được xây dựng 1 cách nôn nóng, gò ép, nặng về hình thức nên hầu hết các tập đoàn sản xuất của Bình Thành đều làm ăn không hiệu quả. Kết quả mang lại là sự suy giảm về năng suất, sản lượng lương thực, gây mất niềm tin trong nhân dân. Vì thế, vào khoảng cuối năm 1986 đầu năm 1987, các tập đoàn sản xuất ở Bình Thành tự động lần lượt tan rã, ruộng đất được trả về hộ gia đình để tự  tổ chức sản xuất.

Về thương nghiệp, thực hiện chỉ đạo của cấp trên, chi bộ, chính quyền và các đoàn thể  xã Bình Thành đã vận động nhân dân đóng góp cổ phần để thành lập Hợp tác xã mua bán. Được nhân dân đồng tình ủng hộ, Hợp tác xã ra đời với mô hình khá hoàn chỉnh về cơ sở vật chất với trụ sở cơ quan, kho bãi, phương tiên vận chuyển. Hoạt động chủ yếu của Hợp tác xã là trao đổi hàng hai chiều: thu mua nông sản của nhân dân và phục vụ lại cho dân hàng hóa nhu yếu phẩm. Dần dần, Hợp tác xã mở rộng quy mô kinh doanh, vận động nhân dân đóng góp thêm nhiều cổ phần, phát triển thêm cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ để mở rộng các dịch vụ mua bán, nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu trao đổi hàng hóa của nhân dân. Nhờ việc lãnh đạo sâu sát của cấp ủy, sự  quản lý chặt chẽ của Ủy ban xã mà trong gần 10 năm tồn tại, hợp tác xã mua bán xã Bình Thành không xảy ra một vụ tiêu cực nào. Hợp tác xã mua bán Bình Thành còn được huyện Đức Huệ công nhận là một đơn vị đạt hạng khá trong toàn huyện.

2.3-Về văn hóa - xã hội:

          Để xây dựng nền văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, chi bộ, chính quyền và các ban ngành đoàn thể xã Bình Thành đã vận động nhân dân bài trừ tệ nạn rượu chè, cờ bạc, những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, thực hiện nếp sống văn hóa mới trong cộng đồng dân cư. Tinh thần làm chủ tập thể, giữ gìn đoàn kết, thắt chặt tình nghĩa xóm làng, tương thân tương ái, chăm lo giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất, trong sinh hoạt cũng như khi hữu sự được đề cao và nhân rộng. Các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc được bảo tồn và phát huy. Trong những ngày lễ, ngày tết, xã tổ chức nhiều đoàn đại diện cho các đoàn thể, các tầng lớp...đi thăm hỏi, chúc tụng nhân dân, mùng thọ, mừng tuổi các cụ cao tuổi có uy tín, tạo ra không khí vui tươi, phấn khởi, đoàn kết, cổ vũ mọi người càng hăng say lao động sản xuất, xây dựng quê hương. Phong trào văn hóa, văn nghệ - thể dục, thể thao trong xã được phát triển, phục vụ thiết thực đời sống tinh thần của nhân dân. Đội Văn nghệ của xã được thành lập từ rất sớm, có những hoạt động thiết thực, bổ ích nhưng gặp nhiều khó khăn, nhất là về kinh phí. Để giải quyết vấn đề kinh phí cho đội văn nghệ, chi bộ và ủy ban xã đã cấp cho đội 1 ha đất sản xuất gây quỹ. Nhờ tăng gia sản xuất, dần dần đội văn nghệ đã tích lũy được tiền để mua nhạc cụ, phông, màn, trang phục, thiết bị âm thanh ánh sáng và cả máy phát điện để phục vụ lâu dài. Từ đó, hoạt động của đội ngày một khởi sắc với nhiều tiết mục sinh động, hấp dẫn, được nhân nhân nhiệt liệt hoan nghênh và ủng hộ. Được củng cố và phát triển về cơ sở vật chất, trang thiết bị cũng như đội ngũ diễn viên, Đội văn nghệ của xã đã thường xuyên phục vụ nhân dân và đạt được  nhiều giải thưởng ở những cuộc hội diễn văn nghệ quần chúng cấp huyện. Bình Thành cũng xây dựng được 1 đội bóng đá để thi đấu giao hữu cũng như tranh giải nhân các ngày lễ do huyện tổ chức.

          Để chăm lo sức khỏe cho nhân dân, chi bộ, chính quyền xã Bình Thành tích cực chỉ đạo công tác phát triển mạng lưới y tế, củng cố đội ngũ làm công tác khám chữa bệnh và xây dựng cơ sở vật chất. Trạm y tế xã tuy còn là nhà tranh vách đất nhưng sạch sẽ, khang trang, kín đáo đảm bảo vệ sinh. Cán bộ phục vụ tại trạm có 3 đồng chí, được đào tạo trình độ y sĩ. Ở mỗi ấp đều có 1 tủ thuốc dân lập và có 1 cán bộ y tế để chữa những bệnh thông thường và sơ cấp cứu khi xảy ra tai nạn. Tinh thần phục vụ nhân dân của đội ngũ làm công tác khám chữa bệnh dần dần được nâng cao. Anh em thay phiên nhau trực 100% tại trạm xá trong tư thế sẵn sàng phục vụ nhân dân bất cứ lúc nào khi có yêu cầu.

          Là một xã biên giới, giao thông kém phát triển, địa bàn rộng lớn, dân cư  không tập trung nên tình hình giáo dục của xã Bình Thành gặp rất nhiều khó khăn. Từ sau ngày giải phóng, chi bộ, chính quyền đã vận động nhân dân đóng góp tranh tre, ngày công để xây dựng ở mỗi ấp từ 1 - 2 trường học, phục vụ nhu cầu học hành cho con em trong xã. Trong điều kiện khó khăn về đường đi lại và thiếu giáo viên đứng lớp, nhưng xã vẫn cố gắng tạo điều kiện cho các em được học hành. Cụ thể, ở khu vực Giồng Ông Út giáp biên giới Campuchia chỉ có khoảng 20 học sinh nhưng xã vẫn xây dựng nơi đây 2 lớp học khối lớp 1 và lớp 2. Lực lượng giáo viên ở địa bàn Bình Thành hết sức thiếu thốn. Xã đã quan tâm đến đưa người địa phương đi đào tạo để khắc phục điều này nhưng không thực hiện được vì thiếu người có trình độ học vấn. Vì vậy, tình trạng 1 giáo viên đứng nhiều lớp và 1 giáo viên phải dạy 2 - 3 ca trong ngày rất phổ biến. Tuy khó khăn là thế, nhưng đội ngũ thầy cô giáo và cán bộ quản lý giáo dục ở Bình Thành với tinh thần yêu nghề mến trẻ đã cương quyết khắc phục khó khăn, không ngừng phấn đấu vì tương lai của thế hệ mai sau. Bên cạnh đó, nhờ sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền và sự giúp đỡ của UNISEP mà đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất phục vụ công tác giáo dục ở Bình Thành dần dần phát triển. Cho đến năm 1985, xã đã xây dựng được trường cấp 2. Trong đội ngũ giáo viên đã có những người là con em của Bình Thành. Trải qua thực tiễn của phong trào giáo dục Bình Thành, một số giáo viên và cán bộ giáo dục đã được tôi luyện và trở thành cán bộ lãnh đạo của ngành giáo dục cũng như cán bộ lãnh đạo huyện.

          Chính sách xã hội là một trong những công tác được chi bộ, chính quyền xã Bình Thành quan tâm thực hiện. Với đặc điểm là một địa phương có truyền thống cách mạng, nhân dân chịu nhiều mất mát hy sinh trong kháng chiến nên công tác đền ơn đáp nghĩa, lập thủ tục hồ sơ cho các đối tượng chính sách như: liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, gia đình có công với cách mạng là việc làm cần thiết và cấp bách thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc. Hàng năm, xã đều xây dựng và thực hiện kế hoạch bốc hài cốt liệt sĩ nằm rải rác trên địa bàn xã và các liệt sĩ vô danh gom về nghĩa trang của xã. Sau đó, hài cốt liệt sĩ được tập trung về nghĩa trang liệt sĩ của huyện. Hàng năm, cán bộ, đảng viên và nhân dân Bình Thành đã đóng góp  tiền và hàng trăm ngày công để góp phần thực hiện chủ trương xây cất nhà tình nghĩa cho những hộ gia đình chính sách gặp khó khăn về nhà ở. Những chế độ đãi ngộ của Nhà nước đối với các gia đình chính sách đều được xã Bình Thành thực hiện một cách công bằng, hợp lý. Xã còn quan tâm đến việc khen thưởng cán bộ cách mạng 3 thời kỳ bằng cách phân công từng đoàn cán bộ xuống cơ sở làm hồ sơ thủ tục gởi lên cấp trên giải quyết.

          2.4-Về quốc phòng an ninh:

Song song với việc xây dựng lại quê hương sau chiến tranh, chi bộ, chính quyền xã Bình Thành xem việc củng cố quốc phòng an ninh là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, có tác động mạnh mẽ với các mặt công tác khác, cần được quan tâm thực hiện thường xuyên. Bởi lẽ, có giữ vững được an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội thì các mặt kinh tế - văn hóa - xã hội mới có điều kiện phát triển. Vì thế, chi bộ, chính quyền xã luôn quan tâm lãnh đao công tác xây dựng, củng cố lực lượng quân sự, công an vững mạnh, đủ khả năng bảo vệ địa bàn, bảo vệ tuyến biên giới, tham gia công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu, tất cả vì sự bình yên, hạnh phúc của nhân dân. Chi bộ và chính quyền còn thường xuyên vận động nhân dân nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, tham gia xây dựng phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc. Công tác tuyển quân của xã nhiều năm liền đạt chỉ tiêu cấp trên giao. Công tác hậu phương quân đội được  xã  quan tâm thực hiện như: cấp ruộng đất cho gia đình bộ đội tại ngũ, tạo điều kiện về công ăn, việc làm để các chiến sĩ an tâm hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc. Bên cạnh lực lượng du kích tập trung, xã còn xây dựng lực lượng dân quân ở các  ấp, thường xuyên làm nhiệm vụ canh gác, góp phần giữ gìn sự bình yên cho thôn xóm.

*

*                 *

Qua 10 năm thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng quê hương (1975 - 1985), chi bộ, chính quyền xã Bình Thành đã góp phần bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia trong chiến tranh biên giới Tây Nam, ổn định đời sống nhân dân, khắc phục cơ bản hậu quả do chiến tranh để lại. Nông nghiệp nông thôn từng bước phát triển với sự gia tăng về mùa vụ, diện tích sản xuất, năng suất, sản lượng. Nông dân từ chỗ thiếu ăn đã vươn lên đủ ăn, có khả năng thực hiện nghĩa vụ thuế để góp phần điều hòa lương thực cho cả nước. Công tác hợp tác hóa nông nghiệp đã được xã hoàn thành đúng chỉ tiêu của cấp trên giao. Lĩnh vực văn hóa - xã hội đều có tiến bộ vượt bậc, nhất là về y tế, giáo dục. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Những thành tựu trên là tiền đề quan trọng để chi bộ, chính quyền và nhân dân Bình Thành chuyển mình cùng cả nước thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng.


II. MƯỚI NĂM ĐẦU CỦA THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986-1995)

Từ những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, các yếu tố của nền kinh tế thị trường đã bắt xuất hiện trong đời sống kinh tế của nước ta. Trong khi đó, mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp ngày càng xuất hiện nhiều nhược điểm và không phù hợp với thực tế của đất nước. Tình hình đó đòi hỏi Đảng ta phải thực hiện đường lối đổi mới để đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và bước vào thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Từ sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12/1986) - cả nước bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện mà đầu tiên là đổi mới về kinh tế.

Bình Thành bước vào những năm đầu của thời kỳ đổi mới với những thuận lợi cơ bản là tiềm năng đất đai dồi dào, nhân dân có truyền thống cách mạng và cần cù, sáng tạo, đoàn kết trong lao động sản xuất. Chi bộ, chính quyền và nhân dân nhanh chóng quán triệt và đồng tình thực hiện chủ trương đổi mới do Đảng đề ra.

Tuy nhiên, Bình Thành là một xã biên giới thuần nông, kết cấu hạ tầng  còn thô sơ, hệ thống thủy lợi chưa được xây dựng, phần lớn đất đai thường xuyên bị ngập nước trong  6 tháng mùa lũ và thiếu nước vào mùa khô, hiệu quả sản xuất thấp, chăn nuôi nhỏ lẻ, đời sống nhân dân còn rất nhiều khó khăn. Hậu quả của việc cào bằng trong phong trào hợp tác hóa nông nghiệp làm cho tình hình nông nghiệp và nông thôn ở xã bị xáo trộn, mất ổn định. Đội ngũ cán bộ xã, ấp phần đông trình độ còn thấp, chưa qua đào tạo chính quy nên công tác quản lý và tổ chức thực hiện các phong trào ở địa phương còn nhiều hạn chế. Tổ chức đảng, chính quyền ổn định, chi bộ đảng của xã phát triển lên 40 đảng viên, tương đối đủ năng lực và vững mạnh để lãnh đạo công cuộc đổi mới, phát triển các mặt của đời sống xã hội ở địa phương. Đồng chí Lê Vũ Mến, Lê Văn Mới và Lê Văn Tổng được bầu làm Bí thư xã từ năm 1987 - 1993. Về phía chính quyền, các đồng chí Đỗ Văn Khải, Phạm Rùm và Nguyễn Văn Dũng được bầu làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã từ 1986 - 1993.

Đến năm 1993, nhiều cán bộ đảng viên giữ những vị trí chủ chốt của cấp ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và một số ban ngành của xã phạm sai lầm trong công tác chống buôn lậu, gây ra những vụ tiêu cực nghiêm trọng. Để làm trong sạch nội bộ theo tinh thần Nghị quyết 03, được sự thống nhất của Thường vụ Huyện ủy, chi bộ Bình Thành đã cương quyết xử lý kỷ luật cách chức, khai trừ đảng một số cán bộ, đảng viên tùy theo mức độ vi phạm. Vì thế, bộ máy Đảng, chính quyền xã Bình Thành lâm vào tình trạng thiếu hụt trầm trọng về nhân sự. Được sự quan tâm lãnh đạo sâu sát của Thường trực Huyện ủy, Thường trực Ủy ban nhân dân huyện, chi bộ, chính quyền xã dần dần được củng cố. Đến tháng 9/1993, nhân sự lãnh đạo cấp ủy, chính quyền xã Bình Thành dần dần được kiện toàn. Đầu năm 1994, đồng chí Lữ Văn Ảnh được bầu làm Bí thư chi bộ; đồng chí Nguyễn Văn Hai được bầu làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Công tác quy hoạch đào tạo, chọn lựa đội ngũ cán bộ kế thừa để phục vụ lâu dài đã được cấp ủy, chính quyền xã Bình Thành hết sức quan tâm và thực hiện nghiêm túc. Nhờ đó, vào đầu năm 1994, khi Bình Thành được tách ra làm 2 để thành lập xã mới Bình Hòa Hưng, xã Bình Thành vẫn có đủ nguồn cán bộ lãnh đạo phục vụ cho bộ máy đảng, chính quyền của 2 xã. Với những thuận lợi và khó khăn trên, trong mười năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới (1986 - 1995), Bình Thành đã đạt được những thành tựu cơ bản như sau:

1.Về kinh tế:

Chi bộ, chính quyền xã Bình Thành tập trung lãnh đạo công tác phát triển kinh tế nông nghiệp theo chủ trương lấp kín Đồng Tháp Mười của tỉnh ủy Long An. Để thực hiện thắng lợi công tác này, việc đầu tiên mà xã  cần làm là xây dựng kết cấu hạ tầng - nhất là hệ thống giao thông, thủy lợi. Huyện đã ưu tiên tập trung lao động đào kinh, xây dựng hệ thống thủy lợi hoàn chỉnh cho vùng trọng điểm Bình Thành để khai thác diện tích đất còn hoang hóa ở khu vực Bàu Voi, Bàu Vòi, giồng Ông Bạn, giồng Ông Út, Sậy Đôi, vùng đồng bưng tiếp giáp với xã Mỹ Thạnh Tây và giáp ranh giới nước bạn Campuchia. Bên cạnh đó, tỉnh đã đầu tư mở ra các tuyến giao thông -thủy lợi lớn, hình thành nên nền hạ tuyến đường từ thị trấn Đông Thành về xã Bình Thành và kéo dài đến gần biên giới. Việc xây dựng kết cấu hạ tầng nói trên là điều kiện cần thiết để thực hiện chủ trương lấp kín Đồng Tháp Mười trên địa bàn xã Bình Thành. Đầu tiên, tỉnh đã thành lập Đoàn xây dựng kinh tế V tại khu vực Bàu Voi và Trấp Mỏ Cộ với diện tích  500 ha để sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại đồng thời thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Mô hình kinh tế này đã đạt được kết quả khả quan, mở ra một tương lai tốt đẹp về khai thác kinh tế Đồng Tháp Mười. Trên cơ sở đó, huyện Đức Huệ đã đề nghị tỉnh cho phép thành lập Đoàn xây dựng kinh tế của huyện tại xã Bình Thành với diện tích khoảng 200 ha. Tru sở làm việc của đoàn và cơ sở vật chất như doanh trại, nhà kho...cũng được huyện đầu tư xây dựng. Các đoàn xây dựng kinh tế được thành lập trên địa bàn xã Bình Thành đã góp phần quan trọng vào công tác khai hoang lấp kín Đồng Tháp Mười, tạo nguồn thu cho ngân sách. Mặt khác, các đoàn xây dựng kinh tế này vừa sản xuất của cải vật chất cho xã hội, vừa có thể bảo vệ vững chắc vùng biên giới nên đã đáp ứng yêu cầu chiến lược kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng do tỉnh đề ra. Ngoài ra, các đoàn kinh tế này còn tạo điều kiện thuận lợi cho một số thanh niên trong độ tuổi có hoàn cảnh khó khăn hoàn thành nghĩa vụ quân sự. Từ thực tiễn của các đoàn xây dựng kinh tế, Bình Thành đã tiếp nhận thêm một nông trường trồng bạch đàn của huyện Đức Hòa với diện tích 80 ha, tọa lạc ở khu vực Ngã năm Bình Thành. Ngoài các đơn vị kinh tế do nhà nước thành lập, để khai thác triệt để tiềm năng đất đai của Bình Thành, tỉnh đã cho chủ trương thành lập đoàn kinh tế Đức Hòa tại Bình Thành. Mỗi hộ gia đình chính sách và hộ gia đình không có hoặc thiếu ruộng đất ở Đức Hòa lên Bình Thành lập nghiệp được cấp 2 ha đất sản xuất và 1 lô đất thổ cư tại khu vực giồng Nổi và đìa Sậy Đôi. Ngoài ra, các hộ này còn được cấp kinh phí hỗ trợ và hưởng các chính sách khác của nhà nước. Trong số này, nhiều hộ đã bám trụ được trên vùng đất mới, sản xuất có hiệu quả và làm giàu lên từ vùng đất Bình Thành. Không những đón di dân trong tỉnh, Bình Thành còn đón nhận nhân dân Hải Hưng - tỉnh kết nghĩa với Long An - đến lập nghiệp, lập nên 3 đoàn kinh tế: Tứ Lộc, Phù Tiên và Châu Giang. Các đoàn xây dựng kinh tế của nhà nước và các hộ di dân đã góp phần quan trọng vào việc khai hoang, phát triển mạnh kinh tế nông nghiệp ở Bình Thành, thực hiện thắng lợi chủ trương lấp kín Đồng Tháp Mười của tỉnh.

Song song với việc khai hoang, mở rộng diện tích sản xuất, chi bộ, chính quyền xã Bình Thành đã quy hoạch lại đất đai, vận động nhân dân thâm canh tăng vụ, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu cây trồng vật nuôi. Trên cơ sở khai thác hệ thống kinh thủy lợi và kinh nội đồng đều khắp, nhân dân Bính Thành đã mạnh dạn chuyển từ 1 vụ lên 2 - 3 vụ/năm, từ độc canh cây lúa sang trồng cây lâu năm, cây công nghiệp. Đến năm 1995, diện tích sản xuất lúa của Bình Thành đạt 1100ha, năng suất bình quân đạt 2,2 tấn/ha/năm. Kinh tế hộ gia đình được khuyến khích phát triển với mô hình VAC. Chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển mạnh, đặc biệt là đàn trâu bò do nông dân tận dụng được lợi thế về đồng cỏ. Tiểu thủ công nghiệp cũng phát triển dựa trên các ngành nghề sẵn có của địa phương như: đan bao bàng, đệm bàng, lò rèn, lò nấu dầu tràm, nhà máy xay lúa...Ngoài thương nghiệp hợp tác xã, một số dịch vụ nông nghiệp phục vụ sản xuất như: kinh doanh phân bón, thuốc trừ sâu cũng ra đời.

Về cơ sở vật chất, xã Bình Thành đã được cấp trên từng bước đầu tư xây dựng những công trình hạ tầng kinh tế xã hội như: lưới điện (từ 1991), cầu, cống, đường giao thông, kinh thủy lợi, trụ sở làm việc của ủy ban, trường học, trạm y tế.... Một số tuyến kênh được nạo vét như  kinh nối liền Giồng Manh Manh với Giồng Lớn, kinh từ Bơ-nô-ghe ra kinh 62. Tuyến đường nối liền xã với trung tâm huyện và một số đường liên ấp được hoàn chỉnh nền hạ và rải sỏi đỏ tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân trong việc đi lại, vận chuyển trang thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất. Dân cư trong xã cũng được quy hoạch lại trên cơ sở những tuyến giao thông này.

2.Về văn hóa-xã hội:

Đời sống tinh thần của nhân dân được nâng cao từng bước nhờ sự xuất hiện ngày càng nhiều của các phương tiên  thông tin truyền thông như: radio, ti vi. Xã đã đầu tư xây dựng đài truyền thanh để tiếp âm thu sóng của Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Long An phát cho nhân dân nghe vào các buổi sáng và thông tin, cổ động mỗi khi có các phong trào hoạt động lớn, các sự kiện chính trị - xã hội quan trọng. Các đội văn nghệ, thể thao của xã vẫn duy trì hoạt động để phục vụ thiết thực cho đời sống tinh thần của nhân dân. Phong trào xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa đang triển khai bước đầu và được nhân dân tích cực hưởng ứng.

Đội ngũ cán bộ y tế của xã phát triển lên đến 6 đồng chí, gồm: 4 y sĩ, 1 y tá, 1 nữ hộ sinh trung cấp, được chia ra làm 2 trạm. Với tinh thần tích cực, hết lòng chăm sóc sức khỏe nhân dân, trạm y tế đã duy trì chế độ trực 24/24 để kịp thời khám và điều trị những bệnh thông thường và cấp cứu những trường hợp bệnh hoạn, tai nạn đột xuất. Các chương trình y tế quốc gia đều được thực hiện khá tốt, đạt yêu cầu từ trên 70% /chỉ tiêu mỗi năm. Công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình được xem là một trong những công tác trọng tâm của xã. Nhờ đó, xã đã xây dựng được đội ngũ cộng tác viên nhiệt tình, tích cực trong công tác vận động nhân dân sử dụng các biện pháp tránh thai để giảm tỉ lệ tăng dân số.

Lĩnh vực giáo dục cũng đạt được những thành tựu quan trọng. Phần lớn các trường học ở xã đã được xây dựng kiên cố và bán kiên cố, đáp ứng được yêu cầu học tập của học sinh và chỗ ăn nghỉ cho đội ngũ giáo viên. Đời sống của giáo viên được nâng cao một bước dẫn đến sự phát triển của chất lượng dạy và học. Cấp ủy, Ủy ban nhân xã đã thiết thực quan tâm đến đội ngũ giáo viên bằng những chính sách khen thưởng, động viên và tổ chức các hoạt động nhân ngày Nhà giáo Việt Nam hàng năm. Nhờ đó mà thầy cô và các em học sinh trong xã đều hăng hái thi đua để lập nên nhiều thành tích trong dạy và học.

Công tác đền ơn đáp nghĩa đối với các gia đình chính sách được thực hiện nghiêm túc, đúng đối tượng, kịp thời gian quy định. Một số gia đình chính sách đã được xây nhà tình nghĩa, những gia đình nghèo được quan tâm cứu tế, trợ giúp để vượt qua khó khăn.

3.Về an ninh quốc phòng:

Ngành công an đã cơ bản hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Sau vụ tiêu cực năm 1992 - 1993, được sự quan tâm của cấp trên, công an xã đã được củng cố, ngày càng đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của ngành giao cho.

Công tác quốc phòng, quân sự địa phương được thực hiện khá tốt mặc dù có bị ảnh hưởng bởi vụ tiêu cực năm 1992 - 1993. Xã đội đã thành lập 1 tiểu đội thường xuyên tuần tra biên giới, tạo điều kiện cho nhân dân yên tâm lao động sản xuất. Lực lượng dân quân ở các ấp phát triển lên 34 đồng chí, công tác giao quân hàng năm đều đãt chỉ tiêu cấp trên giao. Xã đội đã phối hợp chặt chẽ với công an trong việc thực hiện chỉ thị 278 về việc chống buôn lậu qua biên giới, giải quyết những vụ mất an ninh trong xã và tấn công các loại tội phạm.

Trong 10 năm đầu thực hiện sự nghiệp đổi mới, các mặt kinh tế - văn hóa - xã hội - quốc phòng - an ninh của xã Bình Thành đều có những bước tiến quan trọng. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của xã như: đường giao thông, hệ thống thủy lợi, trường học, trạm y tế bước đầu đã được đầu tư xây dựng. Nhờ đó, Bình Thành đã khai phá phần lớn đất đai hoang hóa, góp phần quan trọng vào công tác khẩn hoang, lấp kín khu vực Đồng Tháp Mười theo chủ trương của tỉnh. Kinh tế nông nghiệp phát triển, thể hiện qua sự tăng vọt về diện tích sản xuất, năng suất và sản lượng lương thực so với thời gian trước năm 1986. Được sự quan tâm lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền, nông dân đã bước đầu ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thực hiện thâm canh tăng vụ, mô hình VAC, phát triển chăn nuôi, nhất là chăn nuôi trâu, bò trên cơ sở lợi thế về đất đai và đồng cỏ để phát triển kinh tế hộ gia đình, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống. Đời sống tinh thần của nhân dân được nâng lên thông qua việc hưởng thụ về thông tin, văn hóa - văn nghệ từ các phương tiện thông tin đại chúng. Các cơ sở y tế - giáo dục đã đáp ứng về cơ bản nhu cầu của nhân dân. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Tuy nhiên, sự lãnh đạo của cấp ủy, công tác quản lý của chính quyền có lúc còn chủ quan, lỏng lẻo, thiếu sâu sát dẫn đến việc xảy ra tình trạng tiêu cực, gây ảnh hưởng lớn đến công tác xây dựng, phát triển kinh tế -văn hóa - xã hội ở địa phương và làm giảm sút lòng tin của nhân dân. Đời sống vật chất - tinh thần của nhân dân tuy có được nâng lên nhưng vẫn còn nghèo nàn. Cơ sở vật chất kỹ thuật còn kém phát triển, sản xuất nông nghiệp vẫn còn lệ thuộc vào thiên nhiên. Đó là những thử thách lớn lao mà cấp ủy, chính quyền xã Bình Thành phải tập trung giải quyết để đưa địa phương tiến vào một thời kỳ phát triển mới.

III.TẬP TRUNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ-VĂN HÓA-XÃ HỘI THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN (1996-2005)

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần VIII Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra năm 1996 đã khẳng định kết quả mà cả nước đạt được sau 10 năm đổi mới là thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Đường lối đổi mới là hết sức đúng đắn, góp phần đưa đất nước đi lên công nghiệp hóa - hiện đại hóa từng bước vững chắc. Trên cơ sở nhận thức ấy, Đảng đã đề ra mục tiêu: “Xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”

Quán triệt chủ trương của Đảng, trên cơ sở phát huy những thành tựu ban đầu của 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chi bộ, chính quyền và nhân dân Bình Thành quyết tâm tiếp tục thực hiện sự nghiệp xây dựng quê hương.

Từ  năm 1996, nhân sự lãnh đạo chi bộ và chính quyền Bình Thành tiếp tục ổn định. Tổ chức Đảng ngày càng phát triển, về số lượng và chất lượng. Năm 2000, chi bộ Bình Thành được công nhận là Đảng bộ trực thuộc huyện ủy Đức Huệ với 6 chi bộ trực thuộc. Đồng chí Nguyễn Văn Khuôn được huyện ủy Đức Huệ điều về làm bí thư chi bộ xã Bình Thành từ tháng 5/1995, được tiếp tục giữ nhiệm vụ Bí thư cho đến tháng 12/2001. Từ đầu năm 2002, đồng chí Võ Đức Bê được bầu làm Bí thư Đảng ủy xã Bình Thành cho đến nay. Về phía chính quyền, các đồng chí sau đây được bầu làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã: Nguyễn Văn Hai (1994 - 1999), Huỳnh Tấn Kiệt (2000 - 2005), Nguyễn Văn Nghiêm (2005 - 2010).

Bình Thành bước vào giai đoạn phát triển mới trong điều kiện là một xã biên giới vùng sâu thuộc khu vực Đồng Tháp Mười, dân cư thưa thớt, sống rải rác, chịu ảnh hưởng nặng nề của lũ lụt hàng năm. Bên cạnh đó, hạn hán, sâu rầy, dịch bệnh thường xuyên xảy ra, đặc biệt là nạn chuột cắn phá lúa đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế và đời sống của nông dân. Bình Thành vẫn là một xã thuần nông với nền nông nghiệp kém phát triển, còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất mới được xây dựng bước đầu, trình độ dân trí còn thấp dẫn đến sự hạn chế trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Trình độ của đội ngũ cán bộ còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của địa phương trong thời kỳ mới. Vai trò lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền đôi lúc còn mờ nhạt, công tác kiểm tra giám sát còn thiếu sâu sát nên đã xảy ra một số hiện tượng tiêu cực trong nội bộ, làm giảm sút lòng tin của nhân dân. Bên cạnh những khó khăn trên, Bình Thành có thuận lợi cơ bản là một vùng đất có truyền thống cách mạng, nhân dân có tinh thần đoàn kết, cần cù chịu khó lao động sản xuất. Tiềm năng về đất đai của Bình Thành dồi dào, nông dân tích lũy nhiều kinh nghiệm trong việc thích nghi với sự khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên để khai thác có hiệu quả tiềm năng đất đai cũng như những thế mạnh của địa phương. Bình Thành còn được sự quan tâm lãnh đạo sâu sát của huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện. Toàn đảng bộ đã quán triệt sâu sắc các nghị quyết của cấp trên để vận dụng vào điều kiện thực tế của địa phương, quyết tâm đấu tranh khắc phục những yếu kém, tồn đọng, sẵn sàng sữa chữa sai lầm khuyết điểm để làm cho nội bộ trong sạch vững mạnh. Trên cơ sở phát huy thuận lợi và khắc phục khó khăn vừa nêu, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Bình Thành đã nỗ lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, từng bước nâng cao đời sống nhân dân và đạt được những thành tựu cơ bản trong 10 năm xây dựng quê hương theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn (1996 - 2005).

1.Phát triển kinh tế:

Cấp ủy, chính quyền xã xác định nhiệm vụ trọng tâm là sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng mở rộng diện tích sản xuất, tăng năng suất cây trồng trên cơ sở ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Bên cạnh đó,  chăm lo phát triển tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Từ nhận thức ấy, cấp ủy, chính quyền xã Bình Thành đã tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, xem đây là điều kiện cơ bản để phát triển kinh tế nông nghiệp trong điều kiện cụ thể của địa phương. Trong nhiệm kỳ 1995 - 2000, Bình Thành đã xây dựng đường giao thông liên ấp nối liền ấp 2 với ấp 3, đồng thời cải tạo đường liên xóm từ ranh xã Bình Hòa Bắc đến kinh Bờ-nô-ghe. Về công tác thủy lợi, bên cạnh việc nạo vét một số tuyến kinh cũ, Bình Thành còn  đào mới thêm tuyến kinh Tràm Bò, kinh lộ 18, kinh từ Bờ-nô-ghe lên kinh xáng Manh Manh, kinh từ  Đìa Sậy lên kinh 62. Hệ thống điện được cấp trên đầu từ từ năm 1991, đến năm 1995 tiếp tục phát triển với 55% hộ dân sử dụng điện. Nhiệm kỳ 2000 - 2005, Bình Thành tiếp tục xây dựng 2,9km đường liên ấp, 1,3 km đường liên xóm, xây dựng 5 cây cầu, nạo vét 6km  và đào mới 3,5 km kinh thủy lợi. Một số cụm, tuyến dân cư vượt lũ đã được cấp trên đầu tư xây dựng và thu hút nhân dân đến định cư. Đến năm 2003, khoảng 95% dân số Bình Thành đã có điện sử dụng trong sinh hoạt và sản xuất. Một số giếng nước được xây dựng, góp phần giải quyết vấn đề thiếu nước sạch đã tồn tại từ lâu đời ở Bình Thành. Đến năm 2005, đã có khoảng 30% hộ gia đình sử dụng nước sạch. Các công trình kết cấu hạ tầng nêu trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân mở rộng diện tích canh tác, tăng năng suất, sản lượng cây trồng vật nuôi, phát triển kinh tế nông nghiệp, cải thiện đời sống. Nếu như năm 1995, diện tích sản xuất lúa là 1100ha, đến năm 2000 là 1509 ha và năm 2005 là 2649 ha. Bình quân lương thực trên đầu người năm 1995 là 400kg, đến năm 2000 là 2539kg và năm 2005 là 2805kg. Đến năm 2005, Bình Thành có tổng sản lượng lương thực đạt 9754 tấn/năm, năng suất đạt 4,6 tấn ha. Diện tích cây công nghiệp như mía, tràm đều phát triển. Diện tích cây bàng giảm mạnh do khai hoang, dần dần có xu hướng hồi phục để làm nguyên liệu sản xuất tiểu thủ công nghiệp, phát triển kinh tế hộ gia đình. Về chăn nuôi, do phát triển công tác khai hoang nên đồng cỏ ngày càng thu hẹp, từ đó đàn trâu, bò giảm dần. Từ năm 2000, đàn trâu bò có xu hướng tăng trở lại. Đến năm 2005, Bình Thành có khoảng 450 trâu bò và hiện đang có chiều hướng phát triển tốt. Đàn gia súc, gia cầm khác mà chủ yếu là heo, gà, vịt vẫn phát triển bình thường, mặc dù có bị ảnh hưởng của những đợt dịch bệnh liên tiếp từ năm 2002 đến nay.

Tiểu thủ công nghiệp có phát triển nhưng chưa đáng kể. Hiện tại ngoài một số cơ sở xay xát, hàn tiện phục vụ tại chỗ, Bình Thành còn có nhiều hộ sản xuất hàng thủ công truyền thống như đan đệm bàng, tre trúc  với quy mô gia đình, để tận dụng nguồn lao động dư thừa trong những lúc nông nhàn.

Về thương mại dịch vụ, chủ yêu là mua bán nhỏ, lẻ, chưa hình thành được chợ đầu mối.

Nhìn chung, kinh tế Bình Thành đã có sự phát triển rõ nét, cơ cấu kinh tế bắt đầu chuyển dịch nhưng còn chậm, thu nhập và đời sống của nông dân đã được nâng lên rõ rệt. Từ năm 1996, xã không còn hộ đói, tỉ lệ hộ nghèo giảm dần, năm 2000 có 193 hộ, chiếm 23,82% tổng số hộ dân, đến năm 2005 giảm xuống còn 131 hộ, chiếm 16,7% tổng số hộ. Tuy nhiên, việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi còn chậm và chưa rõ nét, một số mô hình làm ăn có hiệu quả chưa được nhân rộng. Sản xuất nông nghiệp vẫn còn phụ thuộc vào thiên nhiên. Diện tích cây công nghiệp phát triển, nhưng đầu ra chưa ổn định, giá vật tư luôn tăng cao so với giá lúa, vì thế nông dân luôn bị thiệt thòi trong việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm do chính mình làm ra. Đây chính là những rào cản cần tháo gỡ trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp ở Bình Thành.

2.Lĩnh vực văn hóa-xã hội:

Về văn hóa - thông tin, Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khá phát triển và đi vào thực chất với  95 % hộ dân  đăng ký thực hiện, số hộ đạt  4 nội dung vào năm 2005 đạt  80 %, có 1 khu dân cư xuất sắc, 2 khu dân cư tiên tiến. Thực hiện phương châm”Lấy xây dựng gia đình văn hóa làm cơ sở hạt nhân và xây dựng ấp văn hóa là mô hình tổng hợp”, Bình Thành  đã  xây dựng được 1 ấp đạt tiêu chuẩn ấp văn hóa. Mạng lưới thông tin phát triển đến tận cơ sở, ngoài đài truyền thanh xã, còn có  3 trạm truyền thanh ấp, đáp ứng được yêu cầu nâng cao nhận thức và cổ vũ toàn dân tham gia các phong trào hành động ở địa phương. Phong trào thể dục, thể thao sôi nổi, mỗi ấp đều có đội bóng đá và bóng chuyền, chủ yếu hoạt động theo mùa vụ. Đội văn nghệ xã vẫn được duy trì và phát huy tốt trong việc phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Đời sống tinh thần của nhân dân phát triển vượt bậc nhờ sự đa dạng của các phương tiện nghe nhìn. Đến nay, tỉ lệ sử dụng radio, ti vi của các hộ gia đình ở Bình Thành đạt trên 90%.

 Về giáo dục-đào tạo,  chất lượng dạy và học được giữ vững và có chiều hướng phát triển. Tỉ lệ tốt nghiệp hàng năm đạt 100%, tỉ lệ lên lớp đạt trên 98%. Tỉ lệ học sinh lưu ban, bỏ học  mỗi năm đều giảm. Đội ngũ giáo viên từng bước được chuẩn hóa. Xã đang tiến hành  chương trình phổ cập giáo dục tiểu học và phổ cập trung học cơ sở.

Về y tế, cơ sở vật chất phục vụ khám chữa bệnh, đội ngũ cán bộ được nâng cao chất lượng đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, Công tác tác vệ sinh phòng dịch, nhất là trong mùa lũ được quan tâm thực hiện thường xuyên. Các chương trình y tế quốc gia, chương trình dân số, chăm sóc trẻ em... đều được thực hiện có hiệu quả. Đến năm 2005, tỉ lệ tăng dân số còn 1,4%, tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm xuống còn 0,3%.

Về công tác xã hội, xã luôn quan tâm thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách cho các đối tượng. Phần lớn gia đình hộ thuộc diện chính sách đều có cuộc sống ổn định. Xã đã vận động xây dựng 19 căn nhà tình nghĩa, 67 căn nhà tình thương, quan tâm vận động quỹ đền ơn đáp nghĩa. Xã còn tạo điều kiện hỗ trợ nguồn vốn ngân hàng cho các hộ chính sách vay để phát triển kinh tế gia đình, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho 62 hộ. Xã còn quan tâm đặc biệt đến công tác vận động cứu trợ cho các hộ nghèo trong mùa lũ để giảm bớt khó khăn cho đồng bào và kịp thời đề xuất với cấp trên trong những trường hợp cứu tế đột xuất.

3.Lĩnh vực quốc phòng-an ninh:

Từ năm 1996, tình hình trật tự an toàn xã hội được giữ vững, các loại tội phạm từng bước được ngăn chặn, nhất là tệ nạn trộm cắp, say rượu gây rối, cờ bạc...Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc được các tầng lớp nhân dân tích cực hưởng ứng và tự nguyện, tự giác tham gia.  Công tác quản lý địa bàn ngày càng chặt chẽ hơn, nhất là trong những ngày lễ, tết và những lúc diễn ra sự kiện chính trị quan trọng như bầu cử, đại hội Đảng các cấp...Công an xã đã phối hợp chặt chẽ với các ban ngành đoàn thể trong việc xác minh, làm rõ, giải quyết kịp thời các vụ khiếu kiện, những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, giữ gìn sự đoàn kết trong xóm ấp. Công tác chống buôn lậu cũng được cấp ủy, chính quyền xã đặc biệt quan tâm, đặc biệt là việc tuyên truyền, vận động nhân dân, nhờ đó mà tình hình buôn lậu qua biên giới đã giảm hơn 90% so với thời điểm trước năm 1996. Các công tác trên đã được Bình Thành thực hiện 1 cách đồng bộ nên trong giai đoạn 1995 - 2005, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội nơi đây khá ổn định, tạo môi trường lành mạnh để xây dựng, phát triển kinh tế trên địa bàn biên giới vốn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp.

Công tác quân sự địa phương ở Bình Thành luôn đảm bảo các yêu cầu do cấp trên giao. Tỉ lệ giao quân hàng năm đều đạt 100% (riêng năm 1999 chỉ đạt 83,2%), công tác hậu phương quân đội, huấn luyện dân quân, đăng ký quân dự bị, đăng ký nghĩa vụ quân sự đều được thực hiện khá tốt.

Hệ thống chính trị ngày càng được kiện toàn và đi vào hoạt động theo hướng chính quy, hiện đại, đúng quy định của pháp luật. Sự  lãnh đạo của cấp ủy, vai trò quản lý của Uûy ban nhân dân được nâng cao đảm bảo cơ chế  Đảng  lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý. Quy chế dân chủ ở cơ sở bước đầu được thực hiện theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Các đoàn thể ngày càng phát huy vai trò của mình trong hệ thống chính trị, góp phần phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã hội - an ninh - quốc phòng ở địa phương.


 KẾT LUẬN

Trong suốt 35 năm, kể từ  sau cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ cho đến ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Bình Thành là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng, là căn cứ cách mạng, là mảnh đất có truyền thống kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống ngoại xâm. Dù phải trải qua những bước thăng trầm nhưng lúc nào Bình Thành cũng gắn liền với phong trào cách mạng của huyện, tỉnh và các địa phương bạn. Bình Thành là cái nôi của nghĩa quân trong Khởi nghĩa Nam Kỳ và là nơi bảo tồn lực lượng cách mạng sau khi khởi nghĩa thất bại. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Bình Thành luôn là căn cứ địa quan trọng, là con đường hành lang chiến lược của cách mạng từ miền Đông sang miền Tây và từ biên giới xuống các huyện phía Nam. Nhiều cán bộ, chiến sĩ thuộc các cơ quan, đơn vị từ cấp xứ, cấp khu, cấp tỉnh, cấp huyện đã sống và chiến đấu ở Bình Thành để lãnh đạo phong trào cách mạng vượt qua khó khăn thử thách và đi đến thắng lợi hoàn toàn. Bởi thế, kẻ thù đã tập trung những lực lượng tinh nhuệ nhất, những vũ khí, phương tiện tối tân nhất đánh phá Bình Thành hòng tiêu diệt các cơ quan đầu não của cách mạng, cắt đứt con đường hành lang chiến lược. Với đặc điểm là khu vực đất rộng người thưa nhưng là nơi có vị trí chiến lược quan trọng nên Bình Thành là khu vực bị địch tập trung đánh phá ác liệt nhất. Bởi thế, Bình Thành phải hứng chịu bom tấn, pháo bầy, chà đi xát lại không biết bao nhiêu lần, nhân dân và lực lượng cách mạng nơi đây đã mất mát hy sinh nhiều không kể xiết. Mặc dù chiến tranh ác liệt, thiếu thốn đủ mọi bề nhưng nhân dân Bình Thành đã vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, hết lòng cưu mang, đùm bọc, nuôi dưỡng các cán bộ, chiến sĩ cách mạng, góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống ngoại xâm. Nói cách khác, tấm lòng của nhân dân chính là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của căn cứ cách mạng trên đất Bình Thành. Nhờ có dân mà trong suốt mấy chục năm ròng, tuyến hành lang chiến lược của cách mạng ở Bình Thành vẫn được giữ vững, góp phần quan trọng vào thắng lợi của công cuộc kháng chiến. Đóng góp của nhân dân Bình Thành cho sự nghiệp cách mạng là hết sức lớn lao, khó có thể kể cho hết.

Sau 30 năm xây dựng, bảo vệ quê hương, trong đó có 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bình Thành đã thực sự thay da đổi thịt. Nằm ở vùng biên giới xa xôi, đất rộng, người thưa, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, Bình Thành phải vượt qua muôn vàn gian khổ để vươn tới mục tiêu xây dựng một xã hội mới. Vùng đất hoang vu ngày xưa giờ đây không còn nữa, thay vào đó là đồng lúa, vườn cây, rừng tràm mang lại lợi ích kinh tế cho con người. Ba mươi năm trước, muốn đến Bình Thành phải đi bộ hoặc chống xuồng băng qua bạt ngàn cỏ cây hoang rậm, đến nay các phương tiên giao thông thủy bộ đều đến trung tâm xã và một số ấp. Những căn nhà mái đưng, vách đất, xiêu vẹo ngày xưa dần dần biến mất, thay vào đấy là những ngôi nhà  khang trang, được xây dựng bằng vật liệu bền vững. Cái đói đã lùi xa, cái nghèo dần dần bị xóa bỏ. Việc xây dựng các kết cấu hạ tầng như: điện đường, trường, trạm...đã giúp cho nhân dân được hưởng những tiện nghi sinh hoạt hiện đại. Các phương tiện cơ giới đã phần nào thay thế cho sức người trong lao động sản xuất, làm cho năng suất lao động và thu nhập của nhân dân được nâng cao đáng kể. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững và ổn định để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội. Những thành tựu cơ bản ấy là kết quả của quá trình chiến đấu, lao động, học tập lâu dài và gian khổ của nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ và nhân dân Bình Thành. Mặc dù phía trước còn nhiều khó khăn phức tạp, nhưng với truyền thống kiên cường, dũng cảm trong chiến đấu và cần cù, sáng tạo trong xây dựng, chắc chắn rằng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Bình Thành sẽ gặt hái được nhiều thành quả hơn nữa trên con đường xây dựng, phát triển xã nhà đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo đà phát triển chung của đất nước.

 


PHỤ LỤC

DANH SÁCH MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG XÃ BÌNH THÀNH

 

 

STT

 

 

HỌ VÀ TÊN

 

NĂM SINH

 

ĐỊA CHỈ

 

PHỤ GHI

1

Lê Thị Cang

1932

Ấp 1

Còn sống

2

Trần Thị Khuê

 

Ấp 1

Đã mất

3

Võ Thị Tý

 

Ấp 2

Đã mất

4

Nguyễn Thị Giao

 

Ấp 2

Đã mất

5

Nguyễn Thị Lợi

 

Ấp 2

Đã mất

6

Trần Thị Hiền

 

Ấp 2

Đã mất

7

Phan Thị Tý

 

Ấp 2

Đã mất

8

Trần Thị Thế

 

Ấp 2

Đã mất

9

Nguyễn Thị Xuyến

 

Ấp 2

Đã mất

10

Trần Thị Vàng

 

Ấp 2

Đã mất

11

Nguyễn Thị Chở

 

Ấp 2

Đã mất

12

Phan Thị Được

 

Ấp 2

Đã mất

13

Nguyễn Thị Son

 

Ấp 2

Đã mất

14

Trương Thị Tròn

 

Ấp 4

Đã mất

15

Nguyễn Thị Khéo

 

Ấp 4

Đã mất

16

Nguyễn Thị Tôn

 

Ấp 4

Đã mất

 


DANH SÁCH LIỆT SĨ

SỐ TT

HỌ TÊN

NĂM SINH

NĂM MẤT

1

Lê Văn Út

1902

4/6/1944

2

Thái Văn Chứa

 

7/8/1947

3

Lữ Văn Y

1928

10/10/1947

4

Thái Văn Thuận

1910

22/3/1948

5

Nguyễn Văn Quốc

1920

15/4/1949

6

Thái Văn Cai

 

10/1949

7

Huỳnh Tấn Thời

1930

29/4/1950

8

Huỳnh Văn Mãnh

1931

30/12/1950

9

Huỳnh Văn Sến

1923

16/4/1952

10

Pham Văn Can

1927

24/2/1953

11

Nguyễn Hồng Quan

1929

9/11/1952

12

Nguyễn Văn Thạnh

1930

8/8/1953

13

Nguyễn Văn Rã

1932

22/12/1953

14

Ngô Văn Vững

 

10/5/1954

15

Phùng Văn Dược (Đực)

1910

1956

16

Lê Văn Nguyền

1913

17/7/1960

17

Nguyễn Văn Long

1942

1963

18

Huỳnh Văn Lắm

 

10/5/1963

19

Bùi Văn Đực

1944

1964

20

Võ Văn Đực

1947

10/3/1964

21

Phan Văn Không

1940

14/11/1964

22

Đoàn Văn Thăm

1929

7/1965

23

Nguyễn Văn Thơi

1943

30/7/1965

24

Đỗ Văn Thanh

1922

3/10/1965

25

Nguyễn Văn Lành

1942

1966

26

Nguyễn Văn Hồng

1946

27/2/1966

27

Pham Văn Đực

1946

7/1966

28

Nguyễn Văn Phúc

1934

2/7/1966

29

Huỳnh Văn Bột

1935

28/8/1966

30

Lại Văn Nhị

1933

10/10/1966

31

Nguyễn Văn Ba

1948

1967

32

Ngô Văn Cợt

1933

1967

33

Mai Văn Phước

1943

17/2/1967

34

Cao Thị Phở

1948

15/3/1967

35

Nguyễn Văn Nhung

1923

10/3/1967

36

Lê Văn Vẹn

1927

21/7/1967

37

Nguyễn Văn Ngành

1946

16/9/1967

38

Nguyễn Văn Cào

 

1967

39

Nguyễn Văn Dậu

1945

1968

40

Huỳnh Văn Chừ

1941

17/1/1968

41

Phạm Văn Nữa

1945

19/1/1968

42

Pham Văn Phích

1944

12/2/1968

43

Nguyễn Văn Tất

 

14/2/1968

44

Nguyễn Văn Minh

 

16/2/1968

45

Phạm Văn Tới

1947

4/1968

46

Đặng Văn Đông

1948

3/4/1968

47

Nguyễn Văn Phú

 

15/4/1968

48

Nguyễn Văn Kiệp

1945

1/5/1968

49

Ngô Văn Bay

1948

5/5/1968

50

Huỳnh Văn Bán

1933

22/6/1968

51

Phạm Văn Khuẩn

1949

29/7/1968

52

Lê Văn Chừng

1930

25/8/1968

53

Huỳnh Văn Thống

1945

29/9/1968

54

Phạm Văn Dứt

1943

1/11/1968

55

Lê Văn Sì

1946

11/1968

56

Trần Văn Thôi

1938

25/12/1968

57

Phạm Văn Chọn

1942

3/1969

58

Phạm Văn Triệu (Triều)

1934

9/3/1969

59

Lê Văn Đực

1944

9/5//1969

60

Hà Văn Liệt

1943

14/9/1969

61

Nguyễn Thị Nghị

1948

14/9/1969

62

Lý Văn Quít

1941

21/11/1969

63

Lữ Văn Đực

1949

12/1969

64

Nguyễn Văn Giữ

1947

1970

65

Phạm Văn Miễn

1937

1970

66

Nguyễn Văn Tiện

1917

2/5/1970

67

Trần Văn Chuối

1940

2/5/1970

68

Phạm Văn Lành

1941

2/5/1970

69

Nguyễn Thị Chắng

1948

4/5/1970

70

Nguyễn Văn Dinh

1954

20/5/1970

71

Đoàn Văn Coi

1947

10/10/1970

72

Nguyễn Văn Sáng

1951

1/1/1970

73

Nguyễn Văn Cư

1940

14/4/1971

74

Nguyễn Thị Khuyên (Khuynh)

1945

20/12/1971

75

Phạm Văn Vẹn

1956

1972

76

Nguyễn Văn Me

1952

1972

77

Bùi Văn Đơ

1939

29/5/1972

78

Nguyễn Văn Đực

1950

27/9/1972

79

Nguyễn Văn Thép

1948

15/10/1972

80

Nguyễn Văn Đẹt

 

6/6/1973

81

Nguyễn Văn Hùng

1954

15/10/1973

82

Trần Văn Mênh

1953

18/10/1973

83

Mai Văn Lũy

1946

1974

84

Nguyễn Văn Ron

1957

20/2/1975

85

Huỳnh Văn On

1953

20/1/1978

86

Nguyễn Văn Cạn

1920

20/6/1978

87

Lâm Văn Ni

1938

16/4/1980

88

Phạm Văn Cư

1967

20/2/1986


 

DANH SÁCH BÍ THƯ XÃ BÌNH THÀNH QUA CÁC THỜI KỲ

 

SỐTT

HỌ VÀ TÊN

THỜI GIAN

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

LỮ VĂN NGƯU (HUỲNH VĂN DỎM)

HUỲNH VĂN NGÀN (MAO THÀNH LẬP)

LÊ NGỌC VỤ (LÊ VĂN NHỮNG)

HUỲNH VĂN NGÀN

ĐÀO KHẮC BỬU (Xã Bình Thành Bắc)

VÕ PHƯỚC ANH (Xã Bình Thành Bắc)

VÕ ĐẮC THÙY (Xã Bình Thành Bắc)

LÊ CÔNG THÀNH (Xã Bình Thành Bắc)

HUỲNH VĂN NGÀN (Xã Bình Thành Nam)

HUỲNH VĂN NGÀN

PHAN THÁI HÒA(PHAN VĂN NGHĨA)

LÊ NGỌC CHÂU (LÊ VĂN NHIỆM)

NGUYỄN VĂN TUỒNG (NĂM PHẬT)

LỮ VĂN QUỞN (MƯỜI LÙN)

NGUYỄN VĂN DŨNG

TRẦN VĂN TRUYỀN

LỮ VĂN XÊ

VÕ VĂN SÓC

TRẦN VĂN TRUYỀN

LÊ VĂN MỚI (HAI THẾ)

LÊ VĂN MỚI

TRẦN TÚ THƯ

LỮ VĂN NU

LÊ VŨ MẾN

LÊ VĂN MỚI

LÊ VĂN TỔNG

LỮ VĂN ẢNH

NGUYỄN VĂN KHUÔN

VÕ ĐỨC BÊ

1939-1941

1945-1947

1947

1947-1949

1949

1950

1951-1953

1953-8/1954

1949-8/1954

9/1954-1955

1956-1957

1958-1960

1960-1964

1964-1965

1965-2/1968

2/1968-10/1968

11/1968-1970

1970-1976

1977

1977-4/1979

5/1979-4/1984

5/1984 - 10/1984

11/1984-5/1987

5/1987-1988

1988-1990

1991-1993

1994-1995

5/1995-12/2001

2002-2005

 

DANH SÁCH CHỦ TỊCH ỦY BAN KHÁNG CHIẾN-HÀNH CHÁNH XÃ BÌNH THÀNH TRONG CHÍN NĂM CHỐNG PHÁP

SỐTT

HỌ VÀ TÊN

THỜI GIAN

1

2

 

3

4

 

HUỲNH VĂN NGÀN

HUỲNH VĂN NGÀN (Xã Bình Thành Nam)

ĐÀO KHẮC BỬU (xã Bình Thành Bắc)

VÕ PHƯỚC ANH (xã Bình Thành Bắc)

VÕ ĐẮC THÙY (xã Bình Thành Bắc)

LÊ CÔNG THÀNH (xã Bình Thành Bắc)

 

9/1945- 1949

1949-1954

1949

1950

1951-1953

1953-8/1954

 


DANH SÁCH CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ BÌNH THÀNH TỪ NĂM 1975-2005

SỐTT

HỌ VÀ TÊN

THỜI GIAN

 

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

 

 

LÊ VĂN MỚI

NGÔ VĂN CHÁT

LỮ VĂN BON

LỮ VĂN NU

ĐỖ VĂN KHẢI

PHẠM RÙM

NGUYỄN VĂN DŨNG

NGUYỄN VĂN HAI

HUỲNH TẤN KIỆT

NGUYỄN VĂN NGHIÊM

 

1975-1978

1979-1981

1982-1983

1984-1985

1986-1987

1987-1989

1990-1993

1994-1999

2000-2005

2005-2010

 

 

 


Text Box: Trạm bơm điện tại khu vực Tràm BòText Box: Trụ sở Ủy ban nhân dân xã

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


Text Box: Kênh nội đồng phục vụ sản xuất nông nghiệpText Box: Trạm cung cấp nước tại ấp 4, xã Bình Thành

 

Trạm Y tế xã Bình Thành, xây dựng năm 2015, kinh phí 2,86 tỷ đồng


 

Text Box: Trường Mầm non xã Bình Thành, được xây dựng năm 2017

Trường Tiểu học và Trung học cơ sở Bình Thành, do đồng chí Nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang vận động Mạnh thường quân tài trợ xây tặng năm 2019, kinh phí 47 tỷ đồng


 

 


Cánh đồng dưa hấu

Text Box: Tuyến đường Cây Gáo được nhựa hóa

Tuyến đường Cây Gáo được nhựa hóa


Text Box: Ruộng khoai từ

 

Text Box: Vườn mít

Text Box: Mô hình chăn nuôi bò của Hội Cựu chiến binh xãText Box: Sản xuất cây tràm giống

 


Text Box: Một trong những ngôi nhà của nhân dân xã Bình Thành được xây dựng khang trangText Box: Sản xuất lúa vụ đông xuân
NHỮNG  ĐỒNG CHÍ LÃNH ĐẠO CHỦ CHỐT CỦA XÃ  QUA CÁC THỜI KỲ

Đồng chí Nguyễn Minh Nhựt

Bí thư Đảng ủy (2020- nay)

Đồng chí Lại Thanh Phú Quý

Bí thư Đảng ủy (2025-2020)

Đồng chí Lê Công Lợi

Bí thư Đảng ủy (2012-2015)

Đồng chí Lê Vũ Mến

Bí thư Chi bộ (1987-1988)

Đồng chí Lê Văn Tổng

Bí thư Chi bộ (1991 – 1993)

Đồng chí Nguyễn Văn Khuôn

Bí thư Chi bộ (1995-12/2001)

Đồng chí Lữ Văn Ảnh

Bí thư Chi bộ (1994 – 1995)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Text Box: Đồng chí Lê Văn Mới Chủ tịch UBND xã (1975-1978)

 

 

 


 

 

 

 

Đồng chí Nguyễn Hoàng Phong

Chủ tịch UBND xã (2016 -2021)

Text Box: Đồng chí Nguyễn Hải Đảo Chủ tịch UBND xã (2010 – 2015) Text Box: Đồng chí Huỳnh Tấn Kiệt Chủ tịch UBND xã (2000 – 2005) Text Box: Đồng chí Nguyễn Văn Hai Chủ tịch UBND xã (1994-1999) Text Box: Đồng chí Phạm Rùm Chủ tịch UBND xã (1987 – 1989) Text Box: Đồng chí Đỗ Văn Khải Chủ tịch UBND xã (1986 – 1987)

 



1 Nguyễn Đình Đầu, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn-tỉnh Gia Định, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1994, trang 513.

[1] Theo số liệu của ngụy quyền, xã Bình Thành vào năm 1970 có diện tích 112,4 km2, lớn hơn quận Rạch Kiến (93,7 km2), gần bằng quận Tân Trụ (116 km2) và bằng quận Cần Đước (112,4 km2).

[2] Theo lời kể của ông Huỳnh Văn Xã, sinh năm 1913, cán bộ cách mạng lão thành, đã từng chiến đấu tại căn cứ Mớp Xanh sau Khởi nghĩa Nam Kỳ.

[3] Theo lời kể của ông Huỳnh Văn Xã, sinh năm 1913, cán bộ cách mạng lão thành ở làng Hựu Thạnh, quận Đức Hòa.

[4] Đồng chí Lê Văn Tưởng sau này là Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam.

[5] Theo một số nhân chứng, thời gian giữ nhiệm vụ của các đồng chí nói trên như sau: Võ Phước Anh (1950), Võ Đắc Thùy (1951-1953), Lê Công Thành (1953-8/1954)

[6] Đồng chí Huỳnh Văn Ngàn là bí thư chi bộ xã Bình Thành Nam, sau Hiệp định Geneve, Bình Thành Nam và Bình Thành Bắc nhập trở lại thành xã Bình Thành, đồng chí Huỳnh Văn Ngàn được cấp trên điều về làm bí thư chi bộ xã.

[7] Sau đó, đồng chí Nguyễn Hoàng Phú đã bị bệnh nặng và từ trần vào năm 1967.

[8] Tên của một người Pháp đã lên Bình Thành lập đồn điền trồng dừa vào những thập niên đầu thế kỷ XX.

[9] Tháng 8-1972, Trung ương Cục quyết định giải thể Phân khu 23, tái lập tỉnh Long An .

[10] Nhữngh gia đình trở về bám trụ gồm:gia đình đồng chí Sáu Sóc, gia đình đồng chí Hai Giao, gia đình đồng chí Mười Dơn, gia đình đồng chí Tư Thân, gia đình đồng chí Năm Vui, gia đình đồng chí Năm Sóc, gia đình đồng chí Bởi (cán bộ phụ nữ)....

[11] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Long An (1930-2005), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, trang 648.

image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
THỐNG KÊ TRUY CẬP
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tháng: 1
  • Tất cả: 1
Thư viện ảnh